Ngày 23-02-2018
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Vâng nghe Lời Chúa để được biến đổi nhờ thần khí
Lm Đan Vinh
01:59 23/02/2018
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY B
St 22,1-2.9a.10-13.15-18 ; Rm 8,31b-34 ; Mc 9,2-10

I.HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mc 9,2-10

(2) Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. (3) Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. (4) Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su. (5) Bấy giờ, ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: “Thưa thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, Thầy một cái, ông Mô-sê một cái, và ông Ê-li-a một cái”. (6) Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. (7) Và có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. (8) Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giê-su với các ông mà thôi. (9) Ở trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Người đã từ cõi chết sống lại. (10) Các ông tuân lệnh đó, những vẫn bàn hỏi nhau xem câu “Từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì?

2. Ý CHÍNH:

Sau khi cho các môn đệ biết về việc Người sắp lên Giê-ru-sa-lem để chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại, Đức Giê-su muốn củng cố lòng tin của các ông đang bị giao động, bằng cách đưa 3 môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lên núi cao. Tại đây, Người biến hình trước mặt các ông, rồi có lời Chúa Cha xác nhận Người là Con yêu dấu. Có Mô-sê và Ê-li-a hiện ra đàm đạo về cuộc khổ nạn Người sắp trải qua. Như vậy, việc biến hình cho thấy cuộc khổ nạn của Đức Giê-su là do thánh ý của Chúa Cha và cũng nhằm khích lệ tinh thần của các môn đệ, giúp các ông kiên vững lòng tin khi phải chứng kiến cuộc khổ nạn của Người sau này.

3. CHÚ THÍCH:

- C 2-4: + Các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an: Đây là ba môn đệ được Chúa ưu ái. Người cho các ông nhìn thấy vinh quang Thiên tính của Người, như chuẩn bị tinh thần trước để các ông khỏi bị vấp ngã khi chứng kiến cảnh Người phải lo buồn sầu não trong vườn Cây Dầu trước giờ chịu khổ nạn (x. Mc 14,33). + Lên núi cao: Chưa xác định là núi nào trong hai ngọn núi là Tha-bo và Héc-mon. Núi cao thường được coi là nơi Đức Chúa ngự. Lên núi cao là để gặp gỡ Đức Chúa, như Mô-sê gặp Đức Chúa trên núi Khô-rếp trong vùng Si-nai để đón nhận mười điều răn được khắc trên hai tấm bia đá (x. Xh 24,12-18), còn Ê-li-a là vị ngôn sứ thời kỳ Các Vua, ông phải chạy trốn cuộc truy bắt của hoàng hậu I-de-ven bằng cách trốn lên “núi Thiên Chúa” (x. 1V 19,2.8). Trong Tin mừng hôm nay, ba môn đệ đã được Đức Giê-su cho leo lên núi cao để được Người mặc khải cho biết về Thiên tính của Người. + Người biến đổi hình dạng: Đức Giê-su tạm thời từ bỏ hình dạng bình thường của phàm nhân, để mang một hình dạng khác của Con Thiên Chúa. Y phục rực rỡ trắng tinh chiếu tỏa vinh quang thiên giới. Trong đoạn này, Mác-cô cho thấy: Đức Giê-su, Đấng Mê-si-a đang ẩn mình, người Tôi Trung đau khổ của Thiên Chúa, giờ đây đã tỏ bày ra trước kỳ hạn về vinh quang phục sinh sau này. + Ông Ê-li-a và ông Mô-sê: Hai vị này đều đã từng leo núi để tiếp nhận mặc khải của Đức Chúa. Hai vị đều là nhân vật của thời cánh chung. Cả hai đều bước vào thế giới bên kia cách bí nhiệm: Mô-sê thì bị chết ở miền đất Mô-áp trước khi Gio-su-ê lãnh đạo dân Ít-ra-en tiến chiếm Hứa Địa, nhưng không ai biết mộ phần của Mô-sê ở đâu (x. Đnl 34,6), còn Ê-li-a thì leo lên chiếc xe ngựa rực lửa bay về trời trong cơn gió lốc (x. 2V 2,11). Ở đoạn này, sự hiện diện của Mô-sê tượng trưng cho Lề Luật, và của Ê-li-a tượng trưng cho các Ngôn sứ. Điều này chứng minh có sự liên tục giữa Cựu Ước với Tân Ước. Nó cho thấy thời kỳ Cánh Chung và ban ơn Cứu Độ đã khởi đầu. + Hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su: Mác-cô không nói đến nội dung cuộc đàm đạo, đang khi Lu-ca cho biết: “Và nói về cuộc xuất hành” (nghĩa là cuộc ra đi: chết, sống lại và lên trời của Đức Giê-su) - mà Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem (x Lc 9,29).
- C 5-8: + Xin dựng ba cái lều: Lúc đó đang trong thời gian dân Ít-ra-en mừng Lễ Lều kéo dài 7 ngày. Trong các ngày này, họ phải đến ở tạm trong các lều trại làm bằng cành cây, để ôn lại công ơn Đức Chúa đã cứu Ít-ra-en khỏi cảnh nô lệ cho người Ai Cập và cha ông họ đã từng phải ở trong các lều trại nơi sa mạc (x. Lv 23,34.42-43). Ở đây, Phê-rô xin dựng 3 lều trại nhằm kéo dài cuộc thần hiện mà ông được chứng kiến. + Có một đám mây bao phủ các ông: Đám mây diễn tả sự hiện diện của Đức Chúa, giống như trong thời kỳ Xuất Hành của dân Do Thái xưa (x. Xh 40,34-38) + Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người: Lời Chúa Cha công nhận Đức Giê-su là “Con” (x. Tv 2,7), giống như khi Người chịu phép rửa tại sông Gio-đan (x. Mc 1,11). Đức Giê-su cũng được giới thiệu như một Ngôn Sứ mà mọi người phải nghe theo lời Người dạy (x. Mt 16,14 ; Cv 3,22-23).
- C 9-10: + Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy: Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi làm phép lạ chữa bệnh hay trừ quỉ, Đức Giê-su thường đòi người vừa được chữa lành phải giữ kín sự việc xảy ra, không được tiết lộ cho người khác biết là chính Đức Giê-su đã làm phép lạ ấy. Đòi hỏi giữ kín được gọi là “Bí Mật của Đấng Thiên Sai”. Sở dĩ Đức Giê-su không muốn cho người ta biết Người là Đấng Thiên Sai vì cần có thời gian để Người giảng dạy dân Do Thái hiểu đúng về sứ mệnh Thiên Sai của Người đúng theo Ý muốn của Thiên Chúa. Nếu sớm nói ra sự thật này thì sẽ làm cho dân Do thái bị tinh thần ái quốc cực đoan tác động, đang mong đợi một Ông Vua Thiên Sai theo nghĩa trần tục, sẽ hiểu lầm về sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su và sẽ gây ra bạo loạn, làm cớ cho quân Rô-ma đem quân đến tiêu diệt dân Do Thái nhỏ bé, bất lợi cho sứ mệnh Thiên Sai về thiêng liêng tinh thần của Đức Giê-su. Cuộc biến hình biểu lộ Thiên tính của Đức Giê-su sẽ được các môn đệ chính thức công bố sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su, nghĩa là sau khi Người “từ cõi chết sống lại”. + Các ông tuân lệnh đó: Ba môn đệ đã vâng lời Đức Giê-su. Các ông không nói gì về cuộc biến hình này, cho đến sau khi Người chết và sống lại. Dù các ông không hiểu tại sao Người lại cấm như vậy. + Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? Cũng như Phê-rô đã can trách Đức Giê-su đừng chấp nhận con đường cứu thế mà phải qua đau khổ thập giá theo ý Chúa Cha, còn các môn đệ khác đều không hiểu hay không muốn hiểu về con đường “Từ trong cõi chết sống lại” hoặc “Qua đau khổ vào vinh quang” đã được Đức Giê-su công bố trước cuộc biến hình (x Mc 8,31).

4. CÂU HỎI:

1) Tại sao Đức Giê-su lại hiển dung biến hình trước mặt ba môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an?
2) Núi cao ở đây là núi gì?
3) Đức Giê-su hiển dung nhằm mặc khải Người là ai?
4) Nội dung cuộc đàm đạo với Mô-sê và Ê-li-a ra sao và nhằm mục đích gì?
5) Tại sao ông Phê-rô lại xin Thầy Giê-su cho phép dựng 3 lều trại?
6) Đám mây muốn diễn tả gì?
7) Qua lời phán từ trong đám mây, Thiên Chúa muốn mặc khải điều gì về Đức Giê-su với 3 môn đệ thân tín của Người?
8) Bí mật Đấng Thiên Sai nghĩa là gì? Tại sao Đức Giê-su lại cấm ba môn đệ không nói ra điều các ông vừa được chứng kiến? 9) Tại sao sau cuộc biến hình các môn đệ lại thắc mắc về ý nghĩa của câu “Từ trong cõi chết sống lại” của Đức Giê-su?

II.SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su đã biến đổi hình dạng trước mắt các ông” (Mc 9,2).

2. CÂU CHUYỆN:

1) VÂNG LỜI QUÝ GIÁ HƠN BÁU VẬT:

Một hôm nhà vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng xem một viên ngọc trai vừa to vừa rất đẹp và hỏi rằng:
- Khanh hãy lượng định xem viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?
- Tâu Bệ Hạ, nó đáng giá hơn số lượng vàng khối mà 4 con lừa có thể chuyên chở.
Vua ra lệnh cho quan Tể tướng:
- Nhà ngươi hãy đập bể viên ngọc này đi !
Quan Tể Tướng liền nói:
- Tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể đập bể một báu vật rất quý giá như thế được ạ !
Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc quý.
Kế đó vua lại đưa viên ngọc quý ấy cho quan Thị Vệ trong cung và cũng hỏi :
- Theo khanh, viên ngọc này đáng giá bao nhiêu ?
- Bằng cả một tỉnh thành của Vương quốc.
- Khanh hãy đập bể nó ra !
- Đập vỡ viên ngọc này ư ? Tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được công việc đó.
Nhà vua cũng thưởng cho quan Thị Vệ một chiếc áo danh dự và còn tăng lương cho ông.
Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul :
- Ngươi có thấy viên ngọc nào đẹp bằng viên ngọc to quý này không ?
- Muôn tâu, thần chưa hề thấy viên ngọc nào quý giá như viên ngọc của Đức Vua.
- Nhà ngươi hãy đập nát nó đi.
Lập tức Abdul cầm một viên đá lớn đập nát viên ngọc quý kia thành bụi. Quần thần ai nấy đều thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Ab-dul. Họ hỏi ông rằng:
- Sao nhà ngươi lại dám làm như thế ?
Ab-dul bình tĩnh đáp lại:
Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào.
Trước thái độ thần phục tuyệt đối của Ab-dul, nhà vua đã khen ngợi chàng đã làm đúng nhiệm vụ của một bề tôi trung thành và đã ban thưởng bội hậu hơn hai vị quan kia.

Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được Đức Giê-su chính là Con yêu dấu của Chúa Cha khi luôn vâng nghe lời Cha, như Tin Mừng hôm nay đã ghi nhận: Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7b).

2) GIÁ TRỊ BIẾN ĐỔI CỦA ĐAU KHỔ:

Du khách đến Roma thường đi thăm ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis, vì phía trên bàn thờ, có một tượng thánh giá rất đặc biệt : bất cứ ai đến qùi trước tượng thánh giá và cầu nguyện với tất cả lòng thành đều được sức mạnh và an ủi thâm sâu.

Người ta kể rằng tác giả của thánh giá bằng tượng cẩm thạch này đã mất nhiều năm mới hoàn thành được tác phẩm. Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, ông lại cho kéo xuống và đập bỏ, vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông muốn.

Khi ông bắt tay vào công trình lần thứ ba thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tị nên tìm cách hạ uy tín ông. Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau thương.
Ai cũng tưởng rằng cơn thử thách đã khiến ông bỏ cuộc. Trái lại, ông càng miệt mài chú tâm vào công trình. Người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Đức Kitô. Bức tượng của Chúa Giê-su trên thập giá không còn là một phiến đá lạnh lùng , xa lạ, mà trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ muốn tháp nhập vào.

3) THIÊN THẦN BIẾN THÀNH ÁC QUỈ:

Một hôm, một họa sĩ người Ý khá nổi tiếng đang đi bách bộ để tìm hứng sáng tác. Khi đến một khúc cua đường, ông chợt thấy một bé trai có khuôn mặt hồn nhiên dễ mến. Tự nhiên ông muốn vẽ lại vẻ mặt thiên thần của em. Ông nói với cậu bé rằng: “Này em, em có muốn tôi vẽ chân dung của em không?” Cậu bé gật đầu đồng ý và theo họa sĩ về xưởng vẽ của ông. Mấy giờ sau, cậu ta rất ngạc nhiên và vui mừng nhìn thấy khuôn mặt của em rạng rỡ trong bức tranh. Họa sĩ đặt tên cho bức tranh này là: “Tuổi thơ trong trắng”. Ông treo nó nơi phòng khách, và mỗi khi gặp điều gì bực mình, ông lại nhìn lên bức tranh kia và lập tức lấy lại bình an. Một số người muốn mua bức tranh với giá cao, nhưng dù gặp khó khăn về tài chính mà họa sĩ vẫn không bán.

Hai mươi năm sau. Một hôm họa sĩ cũng đang đi dạo để tìm hứng vẽ tranh. Khi tới gần khu nhà ổ chuột, tình cờ ông nhìn thấy một gã ăn xin, áo quần lôi thôi rách nát và có khuôn mặt chai lì gian ác, trông như một tên quỉ sứ. Ông suy nghĩ: “Sao trên đời này lại có người mang bộ mặt gian ác xấu xa đến thế nhỉ? Phải chi ta vẽ được gương mặt quỉ sứ này để so sánh với gương mặt thiên thần trong bức “Tuổi thơ trong trắng” đang treo trong phòng khách nhà ta thì hay biết mấy!”

Bấy giờ gã ăn mày chìa tay ra xin bố thí. Họa sĩ yêu cầu gã làm người mẫu cho ông vẽ và hứa sẽ cho gã một số tiền khá lớn. Gã ăn xin lập tức đồng ý. Khi bức tranh đã vẽ xong, gã nhận tiền và ra về. Nhưng khi đi ngang phòng khách, gã trông thấy bức tranh “Tuổi thơ trong trắng” đang treo trên tường, gã liền dừng lại nhìn một lúc, rồi hai dòng lệ từ từ lăn trên gò má. Sau đó gã chỉ lên bức tranh và nói với họa sĩ rằng: “Thưa ông, đây chính là khuôn mặt của tôi hồi còn bé mà tôi nhớ có lần đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ. Hôm nay ông lại vẽ khuôn mặt của tôi sau khi nó đã biến dạng!” Rồi gã thuật lại cuộc đời bất hạnh của gã như sau:

“Tôi vốn là một đứa con trai, lại là con một, nên được cha mẹ rất mực cưng chiều. Nhưng cũng vì thế mà tôi sinh ra hư hỏng. Khi cha mẹ tôi lần lượt qua đời, tôi đã bán tất cả gia sản cha mẹ để lại để lao mình vào các đam mê trác táng... Chỉ sau một thời gian ngắn, tôi đã phung phí hết tiền bạc của cha mẹ và phải nhập bọn với lũ bạn xấu đi trộm cướp. Rồi tôi bị bắt và thụ án mười năm. Trong thời gian ở tù, tôi đã trải qua rất nhiều gian nan tủi nhục: Bị đánh đập, ứng hiếp và bị bóc lột tàn nhẫn. Nhưng rồi tôi cũng quen dần với cuộc sống đó. Cuối cùng chính tôi lại trở thành kẻ bóc lột hành hạ các tù nhân mới nhập trại và các bạn tù khác yếu đuối hơn tôi. Bây giờ sau khi mãn hạn tù, tôi đang ở trong tình trạng không một đồng xu dính túi, lại còn mang thêm bệnh lao phổi thời kỳ thứ ba. Tôi chẳng biết làm gì hơn là đi ăn xin như ông thấy đó”.

Trước tâm sự của một người đã phung phí trót cả tuổi thanh xuân của mình, họa sĩ rất xúc động. Nhưng ông cũng chỉ biết khuyên bảo gã ăn xin hãy cố ăn ở lương thiện. Ít lâu sau, ông được tin gã đã nằm chết cô đơn tại một góc phố. Họa sĩ đã treo bức tranh “Ác quỉ” mà ông mới vẽ bên cạnh bức “Tuổi thơ trong trắng” trong phòng khách. Ông cũng thường giải thích cho bạn bè và những người thắc mắc về sự xuất hiện của hai bức tranh như sau: “Hai khuôn mặt trong hai bức tranh này thực ra chỉ là một con người. Và sự khác biệt giữa hai khuôn mặt thiên thần và ác quỉ chỉ cách 20 năm sống phóng đãng mà thôi!”.

3. THẢO LUẬN:

1) Hãy cho biết nguyên nhân nào đã biến một em bé có khuôn mặt trong trắng như thiên thần lại biến thành khuôn mặt gian ác của quỉ dữ?
2) Bạn sẽ thực tập nhân đức nào bằng những việc làm cụ thể để loại trừ một thói hư quan trọng bạn đang mắc phải trong Mùa Chay này?

4. SUY NIỆM:

1) BIẾN ĐỔI LÀ QUY LUẬT CỦA CUỘC SỐNG:

Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn một cái cây. Tuy nó vẫn là cái cây đó nhưng bên trong nó có biết bao biến đổi : có những chiếc lá tháng trước đến nay không còn, nhưng lại có nhiều chiếc lá mới mọc ra. Và nhiều chiếc lá hiện nay đến tháng sau sẽ không còn. Nếu cái cây vẫn y như thế từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác thì đó không còn là một cái cây sống nữa mà chỉ là một cây giả.
Hãy nhìn lên trời, chúng ta cũng thấy quy luật biến đổi ấy : bầu trời hôm qua với bầu trời hôm nay đâu có hoàn toàn giống nhau mặc dù cũng vẫn là một bầu trời.
Hãy nhìn xuống nước. Triết gia Hê-ra-clite đã nói "Không ai tắm hai lần trong một dòng sông". Tuy vẫn là con sông ấy nhưng nước sông hôm nay không phải là nước sông của ngày hôm qua.
Và nhìn vào bản thân : các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn có thay đổi, cái này chết nhường chỗ cho cái kia sinh ra. Sau 7 năm thì không còn tế bào nào cũ của 7 năm trước nữa. Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đối với cuộc sống thân xác thế nào thì cuộc sống thiêng liêng cũng giống như thế. Mùa Chay chính là thời gian giúp chúng ta biến đổi nên người mới tốt hơn. Nhờ được ơn biến đổi trong Mùa Chay này, chúng ta hy vọng sẽ được sống lại thật về phần linh hồn trong Mùa Phục Sinh sắp tới.

2) CUỘC BIẾN HÌNH CỦA ĐỨC GIÊ-SU:

- Đức Giê-su biến hình trên núi hé lộ cho ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an thấy vinh quang Thiên Chúa của Người: Từ khuôn mặt đến y phục bên ngoài của Đức Giê-su đều biến đổi nên sáng láng đẹp đẽ khiến ba môn đệ cảm thấy sung sướng ngất ngây khi nhìn thấy. Bấy giờ đang là lễ Lều Trại, ông Phê-rô trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh thấy Thầy Giê-su trò chuyện với hai nhân vật nổi tiếng là Mô-sê, đại diện cho Lề Luật và Ê-li-a, đại diện cho Ngôn Sứ, đã xin Thầy cho dựng ba cái lều: Một cho Thầy, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Bấy giờ có tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám mây xác nhận Đức Giê-su là “Con Yêu Dấu” và dạy các môn đệ “hãy vâng nghe lời Người” (x. Mc 9,7).

- Vâng lời Đức Giê-su chính là vâng lời Chúa Cha như Người đã nói: "Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Ðấng đã sai Thầy" (Lc 10,16). Trong tiệc cưới Ca-na, đức Ma-ri-a cũng dạy gia nhân: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).

Cụ thể vâng lời Đức Giê-su nghĩa là chấp nhận bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa, chấp nhận con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” như Đức Giê-su đã tiên báo khi đi lên Giê-ru-sa-lem mà tông đồ Phê-rô đã can trách, nên đã bị Người mắng như sau: “Xa-tan. Lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23).

Hiểu được giá trị biến đổi của đau khổ thập giá, thánh nữ Bec-na-dét đã cầu nguyện với Chúa Giê-su như sau: ”Con không xin Chúa cất khỏi con sự đau khổ, nhưng chỉ xin Chúa đừng bỏ con khi con chịu đau khổ”.

3) CẦN BIẾN HÌNH NÊN GIỐNG CHÚA GIÊ-SU:

- Họa lại cuộc sống của Đức Giê-su: Khi lãnh bí tích Rửa tội, chúng ta chấp nhận dìm mình trong dòng nước và trồi lên mặt nước giống như Đức Giê-su đã qua cuộc tử nạn, đến ngày thứ ba đã từ cõi chết trỗi dậy. Các tông đồ các thánh tử đạo đã chấp nhận đi con đường chết và sống lại này. Mỗi tín hữu chúng ta hôm nay cũng phải chấp nhận đi con đường của Đức Giê-su, nghĩa là sẵn sàng bị thua thiệt, bị mất việc làm, mất địa vị xã hội vì lòng tin yêu Chúa...

- Thánh Phao-lô đã dạy các tín hữu: “Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí, là sự sống đời đời.” (Gl 6,7-8). ”Vì thế anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối. Anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24).

4) VÂNG NGHE LỜI CHÚA ĐỂ ĐƯỢC BIẾN HÌNH NHỜ THẦN KHÍ:

- Trong những ngày Mùa Chay này, mỗi người chúng ta hãy xét mình mỗi buổi tối và quyết tâm loại trừ các thói hư như: lười tham dự lễ, bỏ đọc kinh tối gia đình, loại trừ thói tham lam ích kỷ và vô trách nhiệm, tránh nói hành những kẻ vắng mặt, biết nín nhịn kẻ mình không ưa… Nhờ việc tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, dọn mình xưng tội, tham dự các buổi học sống Lời Chúa hằng tuần, quyết tâm thi hành các công tác tông đồ bác ái cụ thể kèm theo những lời nguyện tắt… chúng ta hy vọng sẽ được Thần Khí Chúa biến đổi nên hiền lành và khiêm nhường giống Chúa Giê-su như Người đã dạy: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28-29).

- Noi gương Đức Ma-ri-a sau khi đón nhận Thai Nhi Giê-su, đã đem Người đi thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét, làm cho thai nhi Gio-an nhảy mừng trong dạ mẹ. Noi gương An-rê sau khi gặp Đức Giê-su đã gặp Si-mon và dẫn em đến giới thiệu với Đức Giê-su để trở thành tông đồ đi chài lưới các linh hồn. Người tín hữu chúng ta sau khi được ơn biến đổi cũng phải chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa, giới thiệu Chúa cho những người thân như cha mẹ, anh chị em, bạn bè chưa biết Chúa để họ cũng tin yêu Chúa và được hưởng ơn cứu độ với chúng ta.

5. LỜI CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Mỗi khi con bị những tiếng ồn ào vây hãm, xin cho con biết tìm những phút giây thinh lặng được gần bên Chúa.
Khi tâm trí con bị căng thẳng phải lo trăm công ngàn việc, xin cho con biết quý chuộng những giờ phút được hiện diện trước nhan thánh Chúa.
Khi lòng trí con bị giao động và không biết phải làm gì, xin cho con biết tìm đến ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi thân xác con bị lôi cuốn bởi các đam mê dục vọng, xin cho con biết vượt lên cao nhờ biết sử dụng đôi cánh thiên thần là cầu nguyện và chay tịnh.
Lạy Chúa. Ước gì tinh thần ăn chay cầu nguyện thấm nhuần vào cuộc đời con. Trong Mùa Chay này xin giúp con biến đổi nên hiền lành và khiêm nhường giống như Chúa khi xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 
Chữ Tình ?
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
09:42 23/02/2018
Chữ Tình ?

Chúa Nhật II Mùa Chay B

Tình yêu, hai tiếng thân quen mà rất khó diễn đạt. Chuyện cũng thường tình vì nhiều thi nhân đã từng hỏi: đố ai biết chữ tình là chữ chi chi? Mùa chay là mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu hoán cải ăn năn. Ăn năn hoán cải, không nguyên chỉ vì thấy sự xấu xa của kiếp tội đòi nhưng trên hết là vì cảm nhận mối tình bao la mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thấy sự xấu xa và bi đát của thân phận tội lỗi, để rồi quay bước trở về là điều chính đáng và hợp lý, nhưng chưa hẳn là sâu xa và lâu bền. Một sự hoán cải, trở về dựa trên niềm xác tín vào tình yêu của Thiên Chúa mới thực sự là bền vững và sâu xa hơn nhiều. Giáo lý Công Giáo đề cập đến hiện thực này khi phân biệt hai hình thức ăn năn tội đó là ăn năn tội vì Chúa và ăn năn tội vì mình. Để góp phần giúp chúng ta trở về cách trọn hảo hơn, xin được chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa qua các bài đọc của Chúa Nhật II Mùa Chay năm B này.

Yêu mến ai thì không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách thế để hiến dâng điều tốt nhất của mình cho người mình yêu. “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm của lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho” (St 22, 2). Được hiểu như là lệnh truyền của Thiên Chúa, nhưng đó chính là tấm lòng của Abraham dành cho Đấng đã kêu gọi ông ra khỏi nơi quê cha đất tổ mà tiến về hứa địa. Dù băn khoăn, đau xót, nhưng Abraham vẫn muốn hiến dâng điều tốt nhất của mình là chính sự sống nối dài của mình, qua người con một.

Tình yêu thật diệu kỳ. Chính khi trao dâng là lúc lãnh nhận và lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn lần. Abraham đã không mất người con một yêu quý, mà đã trở thành cha của một đoàn con đông đảo “như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển”. Tình yêu thật diệu kỳ, vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8). Là Đấng phải được mọi vật mọi loài tôn thờ và chúc tụng, là Đấng đáng được mọi người thần phục mến yêu và hiến dâng tất cả, thì Thiên Chúa lại trao ban tất cả cho chúng ta. Thánh Tông đồ dân ngoại đã luận lý rằng: Một khi Thiên Chúa đã ban chính Con Một cho chúng ta thì lẽ nào Người lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? (x.Rm 8,32).

Các Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật sự kiện Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê. Có Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Người. Nội dung đàm đạo là về cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu sắp chịu tại Giêrusalem. Và đó chính là đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Vì không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu (x.Ga 15,13). Đây không phải là một tình cảm nhất thời mang tính tự phát, nhưng là một ý đinh có từ ngàn đời qua một chương trình được chuẩn bị từ ngàn xưa, mà sự hiện diện của Môsê và Êlia, đại diện cho Lề luật và hàng Ngôn sứ là một minh chứng hiển nhiên.

Nếu nói rằng Thiên Chúa trao ban chính Con Một, vì nhân loại bội phản, bất trung, sa ngã, phạm tội thì quả không sai. Nhưng nếu nói rằng Thiên Chúa hiến ban Con Một của Người cho nhân loại để mạc khải chính Người là Tình Yêu thì đúng hơn nhiều. “Biên giới của tình yêu là một tình yêu không biên giới”.

Thập giá Chúa mời gọi ta hoán cải. Mùa chay, mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Đấng cứu độ. Các khổ hình Chúa Kitô đã chịu và cái chết tủi nhục của người trên thập giá như một lời tố cáo tội ác của nhân loại chúng ta. Thấy được sự xấu xa của bản thân mình, hẳn nhiên ít nhiều, chúng ta cũng được thúc đẩy chê ghét tội lỗi và hoán cải ăn năn. Tuy nhiên chính tình yêu của Chúa mới làm chúng ta vươn lên, đổi mới, nên hoàn thiện và nhất là biết sống yêu thương cách quên mình.

Được chiêm ngắm dung nhan sáng láng của Thầy chí thánh, đúng hơn là nhờ được thông phần một cách nào đó “bản thể của Đấng là Tình Yêu”, thì Phêrô đã lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia”(Mc 9,5). Sao chỉ có ba cái lều mà không là bốn, năm hay là sáu? Dù đang kinh hoàng và không biết phải nói gì, nhưng Phêrô đã thay hai bạn đồng môn Gioan và Giacôbê nói lên tấm lòng của mình, một tấm lòng quên mình vì người khác.

“Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7). Ước gì chúng ta hằng luôn ghi khắc vào tâm khảm những lời từ miệng của Đấng Cứu Độ sau đây: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 14,24). “Vậy, nếu Thầy là Thầy và là Chúa, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,12). “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).

Ai hiểu được chữ tình? Có thể nói rằng đó là những ai biết ở lại trong tình yêu Đấng Cứu Độ, đồng thời, nhờ và với tình yêu của Người, một cách nào đó họ đã biết yêu thương như Người yêu thương. Thấy tội ác của mình, người ta có cơ may hối hận, ăn năn. Nhưng nghiệm thấy được tình yêu cứu độ thì người ta sẽ biết canh tân và hướng thiện.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa - Ban Mê Thuột
 
Suy Niệm Chúa Nhật II Mùa Chay
Lm. Anthony Trung Thành
09:46 23/02/2018
Suy Niệm Chúa Nhật II Mùa Chay – Năm B

Biến cố Biến hình của Đức Giêsu trên núi cao được Tin mừng Nhất lãm tường thuật lại và được đọc trong Chúa Nhật II Mùa Chay cả ba năm A,B,C. Chúa Nhật II Mùa Chay, năm B, Giáo hội cho chúng ta đọc Tin mừng theo thánh Marcô. Với những gì Thánh Marcô ghi lại, chúng ta có thể rút ra một số điểm suy niệm sau đây:

Thứ nhất, biến cố biến hình giúp cũng cố niềm tin nơi các Tông đồ: Thật vậy, biến cố biến hình xảy ra sau 6 ngày Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài. Trong 6 ngày đó, các Tông đồ sống trong cảnh sầu buồn vì các ông nghĩ rằng Đức Giêsu chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn đồng nghĩa với việc thất bại và như thế thì bao nhiêu ước mơ, hoài bảo của họ sẽ tan thành mây khói, chắc chắn các ông không khỏi thất vọng về Thầy. Sầu buồn, thất vọng vì trong tâm trí các ông còn mang tư tưởng trần tục, hy vọng theo Thầy để được làm ông nọ bà kia khi Thầy công thành danh toại. Cũng vì mang tư tưởng lệch lạc như thế nên trước đó Phêrô đã can ngăn Thầy bước vào cuộc khổ nạn và bị Đức Giêsu quở trách một cách nặng nề. Về phần Đức Giêsu, cho dù bị các môn đệ phản đối, Đức Giêsu vẫn giữ lập trường của mình, vì đó là sứ mạng của Ngài được Chúa Cha trao phó. Vì thế, để thuyết phục các ông, hôm nay Ngài đưa ba môn đệ thân tín lên núi cao và biến hình trước mặt các ông. Qua biến cố này, Ngài muốn nói với các tông đồ rằng: phải qua đau khổ mới tới vinh quang, qua khổ nạn mới bước vào phục sinh vinh hiển.

Thứ hai, biến cố biến hình mời gọi các tông đồ và chúng ta “phải vâng nghe Lời Người”: Trong cuộc sống hằng ngày, vâng lời là một đức tính nhân bản. Chúng ta được dạy phải vâng lời người trên như ông bà, cha mẹ, anh chị, thầy cô…Trong đời sống đức tin, chúng ta được dạy phải vâng lời Thiên Chúa và những người thay mặt Ngài. Chúng ta cũng được mời gọi vâng lời Đức Giêsu. Bởi vì, Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài được Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu độ trần gian. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Cha đã dạy chúng ta phải vâng nghe lời Đức Giêsu rằng: “Này là con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe Lời Người.” (Mc 14,9). Lời của Đức Giêsu được thể trong toàn bộ cuốn Tin mừng. Vì thế, thực hành theo Tin mừng là chúng ta vâng nghe lời Đức Giêsu. Và đó cũng là cách chúng ta thể hiện lòng yên mến Đức Giêsu. Vì, chính Đức Giêsu đã dạy: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy…”(x. Ga 14,21). Lời của Đức Giêsu được thể hiện qua Giáo huấn chính thức của Hội Thánh, qua Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục. Lời của Đức Giêsu được thể hiện qua những lời dạy bảo chính thức của các vị Bề trên, qua ông bà, cha mẹ, anh chị... Vậy chúng ta hãy biết vâng nghe Lời Người. Bài đọc I cho chúng ta tấm gương vâng lời của tổ phụ Abraham. Khi Thiên Chúa đòi ông sát tế Isaac, đứa con duy nhất của mình, để dâng kính Ngài. Mặc dầu, đây là một đòi hỏi phi lý theo cái nhìn của con người và rất mâu thuẫn với lời hứa của Thiên Chúa với ông, nhưng Abraham không hề thắc mắc hay phản đối, trái lại ông hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Điều đó, cho chúng ta thấy ông luôn tin tưởng vào Thiên Chúa và vâng lời Người. Kết quả cho thấy: Isaac được cứu sống và ông Abraham được gọi là kẻ công chính. Sau khi Đức Giêsu về trời, các Tông đồ cũng đã sống chết vì Lời của Đức Giêsu. Ước mong rằng, mỗi chúng ta cũng cần có tinh thần vâng phục như tổ phụ Abraham và như các Tông đồ xưa.

Thứ ba, biến cố biến hình đem lại niềm vui cho các Tông đồ: Sau khi chứng kiến cuộc biến hình của Đức Giêsu, ba môn đệ cảm thấy hạnh phúc. Bởi vì, biến cố biến hình diễn tả trong chốc lát hạnh phúc Thiên đàng. Vì thế, các môn đệ muốn được ở mãi với Ngài trên núi để tận hưởng hạnh phúc đó. Thánh Phêrô nói với Đức Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia.”(Mc 9,5). Nhưng Đức Giêsu mời gọi các ông phải xuống núi, nghĩa là phải chu toàn nhiệm vụ được giao phó, phải trải qua đau khổ mới có thể được hưởng hạnh phúc trọn vẹn trên Thiên đàng. Ước mong của các tông đồ cũng là ước mong của mỗi người chúng ta hôm nay. Vì thế, trong đời sống đức tin, mỗi người chúng ta phải cố gắng để được ở với Chúa. Được ở với Chúa khi chúng ta sống trong ơn nghĩa với Ngài. Được ở với Chúa khi chúng ta cầu nguyện sốt sắng. Được ở với Chúa khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Được ở với Chúa khi chúng ta đọc và suy gẫm Lời Chúa. Nếu chúng ta cảm nghiệm được niềm vui trong những lúc như thế tức là chúng ta đang nếm trước hạnh phúc Thiên đàng, giống như ba môn đệ cảm nghiệm hạnh phúc trên núi Tabor. Nhưng để được hưởng hạnh phúc trọn vẹn và vĩnh cửu trên Thiên đàng chúng ta cũng cần phải xuống núi, tức là phải chu toàn bổn phận của mình, phải trải qua đau khổ thì mới tới vinh quang.

Thứ tư, biến cố biến hình nhắc nhở mọi người chúng ta phải biến hình mỗi ngày: Lâu nay, các môn đệ chỉ thấy Đức Giêsu với con người bình thường như những người khác. Nhưng qua cuộc biến hình, các Tông đồ đã thấy dung nhan Thiên Chúa của Đức Giêsu. Ngài không chỉ là con người bình thường nhưng Ngài chính là Thiên Chúa. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta không còn là người “bình thường” nữa mà chúng ta được gọi là kitô hữu, trở nên con cái Thiên Chúa. Kitô hữu tức là có Chúa trong mình. Chúng ta có Chúa trong mình, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nên phải sống như Chúa đã sống. Để qua cuộc sống của chúng ta, mọi người sẽ nhìn thấy Chúa. Chúng ta phải nói được như Thánh Phaolô rằng: “Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2, 20). Nếu lúc nào đó bản chất kitô hữu trong chúng ta bị biến dạng, hãy mạnh dạn biến đổi mình bằng sự sám hối và lãnh nhận bí tích Giao hòa để tiếp tục trở thành người kitô hữu đích thực.

Lạy Chúa Giêsu, xin cũng cố đức tin cho chúng con như xưa Chúa đã cũng cố đức tin cho các tông đồ để chúng con biết chấp nhận đau khổ trong cuộc sống, nhất là luôn biến đổi bản thân nên giống Đức Giêsu mỗi ngày. Amen.

Lm. Anthony Trung Thành
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Toàn văn Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới Năm 2018 của Đức Thánh Cha Phanxicô
J.B. Đặng Minh An dịch
08:54 23/02/2018

“Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30)

Các bạn trẻ thân mến,

Ngày Giới trẻ Thế giới năm 2018 là một bước chuẩn bị cho Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới sẽ diễn ra tại Panama vào tháng Giêng năm 2019. Giai đoạn mới này trong cuộc hành hương của chúng ta rơi vào cùng năm với Thượng Hội Đồng Giám Mục Thường Lệ về chủ đề: Người Trẻ, Đức Tin Và Sự Phân Định Ơn Gọi. Đây là một sự trùng hợp ngẫu nhiên đáng mừng. Trọng tâm, lời cầu nguyện và suy tư của Giáo hội sẽ hướng về các bạn trẻ, với mong muốn nhận được và, trên hết, là đón nhận món quà quí báu mà các bạn dành cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội và cho thế giới.

Như các bạn đã biết, chúng ta đã chọn để cuộc hành trình này của chúng ta được đồng hành bằng gương sáng và sự cầu bầu của Mẹ Maria, người phụ nữ trẻ xứ Nazareth mà Chúa đã chọn làm Mẹ của Con Ngài. Mẹ cùng đi với chúng ta hướng tới Thượng Hội đồng Giám mục và hướng tới Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ở Panama. Nếu năm ngoái, chúng ta được dẫn dắt bởi những lời ca khen của Mẹ - “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều trọng đại” (Lc 1,49) – là những lời dạy bảo chúng ta hãy nhớ đến quá khứ, thì năm nay chúng ta cùng lắng nghe với Mẹ tiếng Chúa, Đấng khích lệ lòng can đảm và ban cho ta những ân sủng cần thiết để đáp trả lời mời gọi của Người: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30). Đây là những lời được sứ thần Thiên Chúa, là Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel nói cùng Đức Maria, một cô gái bình thường trong một ngôi làng nhỏ ở Galilee.

1. Đừng sợ!

Chúng ta có thể hiểu được là sự xuất hiện đột ngột của Thiên Thần và lời chào bí ẩn của Ngài: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1:28), đã làm cho Đức Maria bối rối, Mẹ đã rất ngạc nhiên trước sự mặc khải lần đầu tiên về căn tính và ơn gọi của mình, mà đến lúc ấy Mẹ vẫn chưa biết. Đức Maria, giống như những người khác trong Kinh Thánh, run rẩy trước mầu nhiệm trong lời mời gọi của Thiên Chúa, là Đấng trong giây phút ấy đã đặt trước Mẹ sự bao la trong kế hoạch của chính Người và làm cho Mẹ cảm thấy tất cả sự nhỏ bé của mình như một sinh vật khiêm tốn. Thánh Thiên Thần, nhìn thấu sâu thẳm con tim Mẹ, nên nói: “Đừng sợ!” Thiên Chúa cũng đọc thấu tận cùng tâm hồn của chúng ta. Người biết rõ những thách đố mà chúng ta phải đối mặt trong cuộc sống, đặc biệt là khi chúng ta phải đối mặt với những lựa chọn cơ bản quyết định chúng ta sẽ là gì và sẽ làm gì trong thế giới này. Đó là cái “rùng mình” mà chúng ta cảm thấy khi phải đối mặt với những quyết định về tương lai, điều kiện sống, và ơn gọi của chúng ta. Trong những giây phút như thế chúng ta thấy mình bối rối và bị tóm lấy bởi bao nhiêu những nỗi sợ.

Và hỡi các bạn trẻ, nỗi lo sợ của các bạn là gì? Điều gì làm các bạn lo lắng nhất? Một nỗi sợ hãi “tiềm tàng” của nhiều bạn là lo sợ mình không được yêu, không được ái mộ hay không được chấp nhận trong tình trạng như mình hiện là. Ngày nay, có rất nhiều người trẻ cảm thấy cần phải khác với những gì họ thực sự đang có, trong một nỗ lực để thích ứng với một tiêu chuẩn thường khi là giả tạo và không thể vươn tới được. Họ liên tục “photo-shop” hình ảnh của mình, núp đằng sau những mặt nạ và những bản sắc giả, đến mức gần như làm giả chính bản thân mình. Nhiều người bị ám ảnh bởi việc càng nhận được nhiều cái “likes” càng tốt. Nhiều nỗi sợ hãi và những bất định xuất hiện từ cảm thức thấy mình không thích hợp này. Những người khác sợ rằng họ sẽ không thể tìm thấy một sự an toàn về tình cảm và rằng họ sẽ mãi mãi cô đơn. Nhiều người, đối diện với sự bấp bênh của công ăn việc làm, sợ không thể tìm được một vị trí nghề nghiệp thỏa đáng, hoặc không thể hoàn thành ước mơ của họ. Ngày nay, một số lượng lớn thanh thiếu niên cảm thấy đầy những nỗi sợ, cả những người có niềm tin lẫn những người vô tín ngưỡng. Thật vậy, những người đã đón nhận hồng ân đức tin và tìm kiếm ơn gọi của mình một cách nghiêm túc cũng không được miễn trừ khỏi những nỗi sợ. Một số người nghĩ: có lẽ Chúa đang yêu cầu hoặc sẽ đòi hỏi nơi tôi quá nhiều; hay có lẽ là, nếu tôi đi theo con đường Người đã vạch ra cho tôi, tôi sẽ không thực sự được hạnh phúc, hoặc tôi sẽ không thể làm những gì Người yêu cầu nơi tôi. Những người khác lại nghĩ: nếu tôi đi theo con đường mà Chúa chỉ cho tôi, ai có thể đảm bảo rằng tôi sẽ có thể đi đến tận cùng trên con đường đó? Liệu tôi sẽ nản lòng chăng? Liệu tôi có đánh mất đi nhiệt tình của mình không? Liệu tôi có thể bền đỗ suốt trọn đường đời tôi không?

Trong những khoảnh khắc khi những hoài nghi và nỗi sợ hãi tràn ngập con tim chúng ta, sự phân định là cần thiết. Nó cho phép chúng ta khống chế sự hoang mang trong những suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta, để chúng ta có thể hành động một cách chính đáng và thận trọng. Trong quá trình này, bước đầu tiên để vượt qua những nỗi sợ là xác định chúng một cách rõ ràng, để không thấy mình lãng phí thời gian và sức lực đương đầu với những bóng ma hư vô. Và vì vậy, tôi mời gọi tất cả các bạn nhìn sâu trong tâm hồn mình và gọi “đích danh” những nỗi sợ hãi của các bạn. Hãy tự hỏi: điều gì làm tôi phiền lòng, điều gì làm tôi sợ nhất trong thời điểm cụ thể này của cuộc sống hôm nay? Điều gì cản trở tôi và ngăn cản tôi tiến lên phía trước? Tại sao tôi thiếu can đảm để đưa ra những lựa chọn quan trọng tôi cần phải làm? Đừng sợ phải đối mặt với những nỗi sợ của các bạn một cách trung thực, để nhận ra chúng là những gì và đối phó với chúng ra sao. Kinh Thánh không bỏ qua kinh nghiệm của con người về sự sợ hãi cũng chẳng bỏ qua những nguyên nhân đa dạng của chúng. Tổ phụ Ápraham đã sợ (xem Sáng-thế Ký 12: 10), Giacóp cũng từng sợ (xem Sáng thế Ký 31:31, 32: 7), Môise (xem Cô-rinh-tô 2:14, 17: 4), Thánh Phêrô (xem Mt. 26: 69ff) và các Thánh Tông Đồ (xem Mc 4: 38-40; Mt 26:56) cũng từng lo buồn. Chính Chúa Giêsu, mặc dù trong một cách thế không thể so sánh được, cũng từng sợ hãi và buồn sầu thống thiết (xem Mt 26:37, Lc 22:44).

“Sao nhát thế? Sao anh em vẫn chưa có lòng tin như thế?” (Mc 4:40). Khi khuyên nhủ các môn đệ của mình, Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu được lý do tại sao trở ngại chính cho đức tin thường không phải là sự hoài nghi nhưng chính là sự sợ hãi. Như thế, chúng ta hiểu được rằng việc phân định giúp nhận ra những nỗi sợ của chúng ta, và sau đó, có thể giúp chúng ta vượt qua chúng, mở đường cho chúng ta đến với sự sống và giúp chúng ta bình tĩnh đối mặt với những thách thức đang xảy đến với mình. Đối với chúng ta đặc biệt là các Kitô hữu, những nỗi sợ không bao giờ có tiếng nói chung cuộc nhưng trái lại nên là một dịp tốt để thể hiện đức tin nơi Thiên Chúa... và nơi cuộc sống! Điều này có nghĩa là tin tưởng vào sự tốt lành cơ bản của sự hiện hữu mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta và tin tưởng rằng Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta đến một kết thúc tốt đẹp, thậm chí dù có phải vượt qua những hoàn cảnh và những thăng trầm làm chúng ta hoang mang. Tuy nhiên, nếu chúng ta che giấu những nỗi sợ, chúng ta sẽ trở nên hướng nội và đóng cửa để bảo vệ bản thân khỏi mọi thứ và mọi người, và chúng ta sẽ bị tê liệt. Chúng ta phải hành động! Không bao giờ tự chôn kín chính mình! Trong Kinh Thánh, cụm từ “Đừng sợ” được lặp đi lặp lại đến 365 lần với các biến thể khác nhau, như để nói với chúng ta rằng Chúa muốn chúng ta thoát khỏi sợ hãi, mỗi ngày trong năm.

Sự phân định là không thể thiếu được khi chúng ta tìm kiếm ơn gọi của mình trong cuộc đời. Thường khi ơn gọi của chúng ta không rõ ràng hoặc hiển nhiên ngay lúc đầu nhưng là một cái gì đó chúng ta dần dần mới hiểu được. Sự phân định trong trường hợp này không nên được xem như là một nỗ lực tự nhận thức cá nhân, nhằm mục đích hiểu rõ hơn về cấu trúc nội tâm của chúng ta để củng cố chúng ta và đạt được một sự cân bằng nào đó. Trong những trường hợp như vậy, người đó có thể trở nên mạnh hơn, nhưng vẫn còn bị hạn chế trong một chân trời giới hạn bởi những khả năng và viễn tượng của mình. Tuy nhiên ơn gọi là một lời mời gọi từ trên cao, và sự phân định trong bối cảnh này chủ yếu có nghĩa là tự mở lòng mình ra cho một Đấng khác đang mời gọi. Vì thế, cần phải thinh lặng cầu nguyện để nghe tiếng Chúa vang lên trong lương tâm của chúng ta. Thiên Chúa gõ cửa chúng ta, như Ngài đã làm với Đức Maria; Ngài mong muốn thiết lập tình bạn với chúng ta thông qua cầu nguyện, muốn nói với chúng ta qua Sách Thánh, muốn ban cho chúng ta lòng thương xót trong Bí Tích Hòa Giải, và muốn nên một với chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể.

Điều quan trọng là phải đối thoại và gặp gỡ người khác, những anh chị em của chúng ta trong đức tin, những người có nhiều kinh nghiệm, vì họ giúp chúng ta nhìn thấy mọi sự tốt hơn và biết lựa chọn khôn ngoan từ những khả thể khác nhau. Khi chàng trai trẻ Samuên nghe tiếng Chúa, anh không nhận ra điều đó ngay. Ba lần anh chạy đến gặp ông Êli, vị tư tế lớn tuổi hơn, là người cuối cùng đã đưa ra một câu trả lời đúng đắn cho lời mời gọi của Chúa: “Nếu Người gọi con, con hãy thưa: 'Lạy Chúa, xin hãy phán bảo, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe'” (1 Sam. 3: 9). Trong những nghi nan của các bạn, hãy biết rằng các bạn có thể tin cậy vào Giáo Hội. Tôi biết có rất nhiều linh mục, những người nam nữ thánh thiện và các tín hữu giáo dân, nhiều người trong số họ còn trẻ, họ là những người có thể nâng đỡ các bạn như những anh chị em trong đức tin. Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, họ sẽ giúp bạn hiểu rõ những nghi nan của các bạn và hiểu được kế hoạch Chúa dành cho các bạn trong ơn gọi của mình. Tha nhân không chỉ là một hướng dẫn tinh thần, mà còn là người giúp chúng ta mở rộng chính mình cho sự giàu có vô hạn trong cuộc sống mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Điều quan trọng là tạo ra không gian trong các thành phố và cộng đồng để phát triển, mơ ước và hướng đến những chân trời mới! Đừng bao giờ mất đi sự nhiệt tình trong việc được hưởng sự tháp tùng và tình bạn, cũng như niềm vui khi được cùng nhau mơ ước, khi được đồng hành với nhau. Kitô hữu đích thực không sợ mở lòng mình ra với người khác và chia sẻ với họ những không gian quan trọng của mình, để biến những không gian ấy thành những không gian của tình huynh đệ.

Các bạn trẻ thân mến, đừng để cho tính năng động của tuổi trẻ bị dập tắt trong bóng tối của một căn phòng khép kín trong đó cửa sổ duy nhất thông ra thế giới bên ngoài là máy tính và điện thoại thông minh. Hãy mở rộng cánh cửa của cuộc sống các bạn! Cầu xin cho thời gian và không gian của các bạn tràn ngập những mối quan hệ có ý nghĩa, những người thực, là những người các bạn chia sẻ kinh nghiệm thực và cụ thể của bạn về cuộc sống hàng ngày.

2. Đức Maria!

“Ta đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi” (Is 43: 1). Lý do đầu tiên để đừng sợ là Thiên Chúa đã gọi chúng ta đích danh. Thiên Thần, là sứ giả của Thiên Chúa, đã gọi đích danh Mẹ Maria. Quyền được đặt tên thuộc về Thiên Chúa. Trong công trình sáng tạo, Người đặt tên cho mọi loài Người đã tác tạo. Có một căn tính đằng sau một cái tên, một cái gì là duy nhất trong mọi thứ, trong mỗi người; một yếu tính thân mật mà chỉ có Thiên Chúa mới thực sự thấu hiểu. Quyền thánh thiêng này đã được Chúa chia sẻ với con người khi Người mời gọi con người đặt tên cho thú vật, chim chóc và cả con cái của mình (Sáng thế ký 2: 19-21, 4: 1). Nhiều nền văn hoá chia sẻ tầm nhìn sâu sắc trong Kinh Thánh; họ nhận ra trong mỗi cái tên một sự mặc khải mầu nhiệm sâu sắc của cuộc sống và ý nghĩa của sự hiện hữu.

Khi Thiên Chúa kêu gọi ai đó bằng tên của người ấy, Người cũng mạc khải cho người ấy biết ơn gọi, kế hoạch thánh thiện và viên mãn mà Người thiết kế riêng cho người ấy để qua đó người ấy trở thành ân sủng cho người khác. Và khi Thiên Chúa muốn mở rộng chân trời của cuộc sống, Người đưa ra một cái tên mới cho người mà Ngài kêu gọi, như Ngài đã từng làm với Simon, người mà Ngài gọi là “Phêrô”. Từ đây có một phong tục lấy tên mới khi bước vào một tu hội, để cho thấy một căn tính và một sứ mệnh mới. Vì lời mời gọi của Thiên Chúa là duy nhất và cá vị, chúng ta cần can đảm để giải thoát chúng ta khỏi áp lực phải được định hình theo những khuôn mẫu phải theo, để cuộc sống của chúng ta thật sự có thể trở thành món quà đích thực và không thể thay thế được cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội và cho tất cả mọi người.

Các bạn trẻ thân mến, được gọi đích danh là dấu chỉ của phẩm giá cao trọng trước mắt Thiên Chúa và là dấu chỉ của tình yêu Ngài dành cho chúng ta. Thiên Chúa kêu gọi đích danh mỗi người trong các bạn. Tất cả các bạn là “mình” trước mặt Thiên Chúa, quý giá trong đôi mắt của Người, đáng trân trọng và mến thương (xem Is 43: 4). Hãy chào đón với niềm vui cuộc đối thoại này mà Thiên Chúa ban cho các bạn, lời kêu gọi mà Người gửi đến cho các bạn, đích danh từng người.

3. Bà đẹp lòng Thiên Chúa

Lý do chính Đức Maria không phải sợ là vì Mẹ đẹp lòng Chúa. Từ “ân sủng” nói đến tình yêu trao ban cách nhưng không, chứ không phải thủ đắc được. Chúng ta được khích lệ biết ngần nào khi thấy rằng chúng ta không cần phải mưu cầu sự thân mật với Thiên Chúa và sự phù giúp của Người, bằng cách chìa ra một “Lý lịch Nghề nghiệp”, đầy những lời khen thưởng và thành công! Thiên Thần nói với Đức Maria rằng Mẹ đã đẹp lòng Thiên Chúa rồi, chứ không phải là Mẹ sẽ đạt được điều đó trong tương lai. Và những lời của thiên thần trong cùng một công thức như thế giúp chúng ta hiểu rằng ân sủng của Thiên Chúa là liên tục chứ không phải là một cái gì đó đi qua hay thoáng qua; vì lý do này, ân sủng Chúa sẽ không bao giờ cạn kiệt. Ngay cả trong tương lai, ân sủng của Thiên Chúa sẽ luôn ở đó để dưỡng nuôi chúng ta, đặc biệt trong những giây phút thử thách và tối tăm.

Sự hiện diện liên tục của ân sủng Chúa khuyến khích chúng ta đón nhận ơn gọi của chúng ta với sự tự tin; ơn gọi của chúng ta đòi hỏi một sự cam kết trung thành cần được làm mới lại mỗi ngày. Con đường ơn gọi của chúng ta không phải là không có những thập giá của nó: không chỉ là những nghi ngờ ban đầu của chúng ta thôi đâu, mà còn có cả những cám dỗ thường xảy ra trên đường đi. Cảm giác không thích hợp tháp tùng với các môn đệ Chúa Kitô cho đến cùng. Tuy nhiên, người đó biết mình được nâng đỡ bằng ân sủng của Thiên Chúa.

Những lời của Thiên Thần rơi xuống trên những những nỗi sợ của con người, giải thể chúng bằng quyền năng của Tin Mừng mà chúng ta là những người loan báo: cuộc sống của chúng ta không chỉ gồm toàn những may mắn cũng chẳng phải chỉ là một cuộc vật lộn để sống còn, trái lại mỗi người chúng ta là một câu chuyện vui vì được Thiên Chúa yêu mến. Chúng ta “tìm thấy ân sủng trong mắt Người” có nghĩa là Đấng Tạo Hoá nhìn thấy một vẻ đẹp độc đáo trong hiện trạng của chúng ta và Người có một kế hoạch tuyệt vời cho cuộc sống của chúng ta. Nhận thức về sự xác tín này, tất nhiên, không giải quyết được hết tất cả các vấn đề của chúng ta cũng như không làm tan biến đi sự bấp bênh của cuộc sống. Nhưng nó có sức mạnh để biến đổi cuộc sống của chúng ta một cách sâu sắc. Không biết ngày mai dành cho chúng ta những gì không phải là một mối đe dọa đen tối mà chúng ta cần phải vượt qua đâu, nhưng là thời thuận lợi để chúng ta sống tính độc đáo trong ơn gọi cá vị của chúng ta, và chia sẻ ơn gọi đó với anh chị em của chúng ta trong Giáo Hội và trên thế giới.

4. Can đảm trong khoảnh khắc hiện tại

Sự xác tín rằng ân sủng của Thiên Chúa luôn ở cùng chúng ta làm nảy sinh sức mạnh để can đảm trong giây phút hiện tại: đó là lòng can đảm thực thi những gì Thiên Chúa yêu cầu chúng ta ở đây và ngay bây giờ, trong mọi khía cạnh của cuộc sống của chúng ta; can đảm để đón nhận ơn gọi mà Thiên Chúa tỏ lộ cho chúng ta; can đảm để sống đức tin của chúng ta mà không che giấu hoặc giản lược nó.

Vâng, khi chúng ta mở lòng mình ra với ân sủng của Thiên Chúa, điều không thể trở thành hiện thực. “Nếu Thiên Chúa đứng về phía chúng ta, ai có thể chống lại chúng ta đây?” (Rm 8:31). Ân sủng của Thiên Chúa chạm đến cái “bây giờ” trong cuộc sống của các bạn, “nắm lấy” các bạn trong tình trạng hiện nay của các bạn, với tất cả những nỗi sợ hãi và giới hạn của các bạn, nhưng ân sủng Người cũng cho thấy những kế hoạch diệu kỳ của Người! Hỡi các bạn trẻ, các bạn phải biết rằng có những người thực sự tin tưởng nơi các bạn: xin hãy biết rằng Đức Giáo Hoàng có lòng tin nơi các bạn, rằng Giáo Hội tin tưởng các bạn! Về phần mình, hãy tin tưởng vào Giáo Hội!

Đức Maria trẻ tuổi được ủy thác một nhiệm vụ quan trọng chính vì Mẹ còn trẻ. Các bạn trẻ sung sức vì đang trải qua một giai đoạn trong đời người trong đó không thiếu năng lượng. Hãy tận dụng sức mạnh và năng lượng này để cải thiện thế giới, bắt đầu với những thực tại gần gũi nhất với các bạn. Tôi muốn những trách nhiệm trọng đại được trao cho các bạn trong Giáo Hội; tôi muốn Giáo Hội có can đảm để tạo ra không gian cho các bạn; và các bạn được chuẩn bị để thực hiện những trọng trách này.

Tôi mời gọi các bạn một lần nữa hãy chiêm ngắm tình yêu của Đức Maria: một tình yêu chăm sóc, năng động và cụ thể. Một tình yêu đầy sự dũng cảm và tập trung hoàn toàn vào sự trao ban chính mình. Một Giáo Hội được thấm nhuần bởi những phẩm chất của Mẹ Maria sẽ luôn luôn là một Giáo Hội đi lên, vượt quá giới hạn và ranh giới của chính mình để trao ban những ân sủng nhận được dư dật. Nếu chúng ta để cho mình được thực sự xúc động trước tấm gương của Đức Maria, chúng ta sẽ sống thực sự lòng bác ái đang thúc đẩy chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và trên cả chính chúng ta, và yêu thương những người mà chúng ta chia sẻ cuộc sống hàng ngày. Và chúng ta cũng sẽ yêu những người có vẻ như thật khó yêu. Đó là một tình yêu là phục vụ và dâng hiến, trước hết dành cho những yếu đuối và nghèo nhất, một tình yêu biến đổi khuôn mặt của chúng ta và làm tràn ngập trong ta niềm vui.

Tôi muốn kết thúc bằng những lời đẹp đẽ Thánh Bernard đã dùng trong một bài giảng nổi tiếng về mầu nhiệm Truyền Tin, những lời diễn tả sự mong đợi của toàn thể nhân loại đối với lời đáp trả của Đức Maria: “Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, Mẹ đã nghe rằng Mẹ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai; Mẹ đã nghe rằng đó sẽ không phải do con người mà bởi Chúa Thánh Thần. Thiên thần đang chờ đợi câu trả lời... Lạy Đức Mẹ, chúng con cũng đang chờ đợi lời từ bi của Mẹ... Trong phản ứng ngắn gọn của Mẹ, chúng con sẽ được tái tạo để được mời gọi đến sự sống... Đây là điều mà cả thế giới chờ đợi, phủ phục dưới chân Mẹ... Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, xin mau trả lời” (Bài giảng số 4, 8-9; Opera Omnia).

Các bạn trẻ thân mến,

Chúa, Hội Thánh, và thế giới đang chờ đợi câu trả lời của bạn cho ơn gọi độc đáo mà mỗi người nhận được trong cuộc sống này! Khi Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ở Panama đến gần hơn, tôi mời các bạn chuẩn bị cho cuộc tụ họp của chúng ta với niềm vui và sự nhiệt tình của những ai muốn tham gia vào cuộc phiêu lưu tuyệt vời như vậy. Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới là dành cho những người can đảm! Không dành cho những người trẻ chỉ kiếm tìm sự thoải mái và những ai trốn chạy bất cứ khi nào những khó khăn nổi lên. Các bạn có chấp nhận thử thách không?

Từ Vatican, ngày 11 tháng 2 năm 2018
Chúa Nhật Thứ Sáu Mùa Quanh Năm
Lễ Kính Đức Mẹ Lộ Đức


Source: Libreria Editrice Vaticana MESSAGE OF HIS HOLINESS POPE FRANCIS FOR THE THIRTY-THIRD WORLD YOUTH DAY 2018
 
Tĩnh tâm giáo triều, bài 9: Lắng nghe khát vọng của vùng ngoại biên
Hồng Thủy
10:01 23/02/2018
“Anh/Em của chúng ta ở đâu?” Câu hỏi này luôn chất vấn chúng ta. Bài suy niệm thứ 9 của tuần tĩnh tâm của Đức Thánh Cha và giáo triều Roma dựa trên câu hỏi của Chúa trong sách Sáng thế, có tựa đề “Lắng nghe khát vọng của “vùng ngoại biên.” Cha Josè Tolentino Mendonça mời gọi chúng ta quan sát với đôi mắt mở to để thấy những gì đang xảy ra trên thế giới xung quanh chúng ta và tìm người anh em của chúng ta giữa những người nghèo, người rốt hết trên thế giới, không phân tách “cơn khát thiêng liêng” ra khỏi “cơn khát theo nghĩa đen.” Nếu không, chúng ta cảm thấy thoải mái và trốn tránh trách nhiệm xã hội.

Thiếu nước

Một trong những tiêu chuẩn để hiểu “trung tâm” là gì và “ngoại biên” là gì, đó là có nước uống, một quyền không thể chối bỏ của con người. Như thông điẹp Laudato Si’ đã khẳng định và các số liệu của các tổ chức quốc tế lập lại, có hơn 2 tỉ người không có cơ hội có nước uống. Một số đông những người ở vùng ngoại biên bị khát theo nghĩa đen, trước tình cảnh đó người ta nhận thấy sự cấp thiết cần có một sự hoán đời sống và con tim thật sự”, “sự hoán cải đi ngược dòng với nền văn hóa hoang phí và bất bình đẳng xã hội.” Nơi nào các nước giàu phung phí tài nguyên của họ, thì “những nước khác sống trong đau khổ.”

Chúa Giêsu là “một người thuộc vùng ngoại biên”

Trong bối cảnh này “Giáo hội không được sợ trở thành ngôn sứ và đặt một ngón tay vào vết thương”. “Một môn đệ của Chúa Giêsu phải biết điều này”, trên hết vì “chính Chúa Giêsu là một người từ vùng ngoại biên.” Người không phải là một công dân La Mã, cũng không phải là một phần của giới tinh hoa Do Thái, được sinh ra ở ngoại ô Bêlem, vùng ngoại biên của Israel và đế quốc. Người sống ở Nadarét, một tên quá ít ý nghĩa đến nỗi nó là một trong những nơi hiếm hoi ở Palestin không bao giờ được Cựu ước nhắc đến. Và ở vùng ngoại biên Galilê Người loan báo Tin mừng bằng cách mang lại phẩm giá cho người bệnh, người bị quỷ ám, người nghèo, dân ngoại và tội nhân. Sứ điệp của Chúa Giêsu đi vào các vùng ngoại biên. Ngay cả sau khi Phục sinh, Chúa Giêsu cũng muốn gặp lại các môn đệ ở vùng ngoại biên Galilê (Mc 16,7).

Khu vực ngoại biên nằm trong ADN của Kitô hữu và đưa họ đến gần hơn với bối cảnh nguyên thủy của họ, và cũng gần với chương trình của họ. Đây là một chìa khóa không thể thiếu được cho việc chú giải về mặt thiêng liêng và hiện sinh của nó. Trong mọi thời đại, đối với kinh nghiệm Kitô giáo, sẽ luôn còn một nơi đặc biệt để gặp và gặp lại Chúa Giêsu.

Trong các vùng ngoại biên có sự sống động của các dự án của Kitô hữu

Chính Kitô giáo và rồi bản chất của nó là một “thực tại ngoại biên.” Người ta có thể thấy điều này cách cụ thể, nơi mà các trung tâm thành phố biến thành một trung tâm của các hoạt động quan liêu và thương mại” và “tủ kính của quá khứ” cho khách du lịch, trong khi “sức sống của dự án Kitô giáo được thực hiện ở ngoại ô”, “ở nơi thậm chí không có sự hiện diện của một nhà thờ xây và nơi mọi thứ không chắc chắn, mỏng manh hoặc khó phác hoạ hơn”. Đối với Giáo Hội, ngoại biên là một chân trời chứ không phải là một vấn đề và đó là nơi người ta có thể đi ra khỏi chính mình và khám phá lại chính mình.

Sự lựa chọn gặp gỡ với các vùng ngoại ô không chỉ là yêu cầu của lòng bác ái, đó là một sự di chuyển về mặt lịch sử và địa lý cho phép gặp được những gì mà Kitô giáo đã là và gặp những gì nó hiện là. Ngay cả những vùng ngoại vi của Giáo Hội cũng khát: khát được lắng nghe.

Như Thánh Gioan Kim Khẩu đã cảnh báo, Giáo Hội phải tránh “sự chia rẽ khủng khiếp” giữa “người tách biệt Bí tích của bàn thờ ra khỏi Bí tích của anh em, một cách nguy hiểm, người đó đưa bí tích Thánh Thể xa khỏi bí tích của người nghèo.

Ngoại biên như nơi của linh hồn

Tuy nhiên, các vùng ngoại biên hiện sinh không chỉ là ngoại biên về mặt kinh tế và tất cả chúng ta đều biết giữa chúng ta và những người ở bên cạnh chúng ta thường có khoảng cách vô hạn cần được ôm lấy và dẹp bỏ.” Đây là lý do tại sao nhân loại phải được chấp nhận và thậm chí nếu chúng ta không thể ngăn được nước mắt trên gương mặt của người khác, chúng ta có thể trao cho họ một chiếc khăn tay và nói “Tôi ở đây”, “bạn không cô độc.” Các vùng ngoại biên, trên thực tế, “không chỉ là những địa điểm vật lý, chúng còn là những điểm nội tâm của sự hiện hữu của chúng ta, chúng là những nơi linh hồn cần được săn sóc.” (Vatican News 22/02/2018)
 
Đức Hồng Y Sarah: Rước lễ trên tay là một phần trong 'cuộc tấn công của Satan' vào bí tích Thánh Thể
Đặng Tự Do
17:27 23/02/2018
Đức Hồng Y kêu gọi sự tôn trọng hơn đối với Bí Tích Thánh Thể

Thực hành phổ biến của người Công Giáo là rước lễ trên tay trong khi đứng là một phần của cuộc tấn công của Satan nhắm vào Giáo Hội, người đứng đầu Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích của Vatican đã nhận xét như trên.

Trong lời nói đầu của một cuốn sách về vấn đề này, Đức Hồng Y Robert Sarah than thở sự thiếu tôn kính Bí tích Thánh Thể, và nhấn mạnh rằng điều này dẫn đến những tin tưởng “sai lầm” về vấn đề này.

Đức Hồng Y viết:

“Cuộc tấn công nguy hiểm nhất của Satan bao gồm những cố gắng dập tắt niềm tin vào Bí Tích Thánh Thể, gieo rắc sai lầm và ủng hộ việc đón nhận Thánh Thể không xứng đáng”.

“Đó thật là cuộc chiến giữa một bên là Tổng Lãnh Thiên Thần Micae và các thiên thần của Ngài, và bên kia là Luxiphe, vẫn đang tiếp tục diễn ra trong lòng các tín hữu: mục tiêu tấn công của Satan là Thánh lễ hy tế và Sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong hình bánh đã được truyền phép.”

“Tại sao chúng ta lại cứ khăng khăng rước lễ trên tay trong khi đứng như thế? Tại sao lại có thái độ thiếu vâng phục những dấu chỉ của Thiên Chúa như vậy?

“[Rước lễ trên lưỡi trong khi quỳ gối] là rất phù hợp với bí tích này. Tôi hy vọng chúng ta có thể tái khám phá và quảng bá vẻ đẹp và giá trị mục vụ của cách thức này. Theo quan điểm và phán đoán của tôi, đây là một vấn đề quan trọng mà Giáo Hội ngày nay phải suy tư. Đây là một hành vi thờ phượng và yêu thương mà mỗi người chúng ta có thể dâng lên Chúa Giêsu Kitô.”

Những nhận xét của Đức Hồng Y đã xuất hiện trong lời nói đầu của cuốn sách mới “Trao Mình Thánh Chúa trên tay: một nghiên cứu về lịch sử, pháp lý và mục vụ” của Don Federico Bortoli. Cuốn sách được tái bản trên trang web La Nuova Bussola Quotidiana.

Rước lễ trên tay, theo Đức Hồng Y, “liên quan đến sự phân phát nhiều tấm bánh” Thánh Thể, mặc dù nhỏ, vẫn là thân thể của Chúa. Thiếu tôn trọng điều này có thể khiến mọi người mất niềm tin vào sự Hiện diện Thực sự của Chúa, dẫn dắt người Công Giáo đến suy nghĩ cho rằng: Nếu ngay cả cha xứ cũng không quan tâm đến những hình bánh, nếu ngài cũng chỉ quan tâm đến việc ban phát cho mau các hình bánh, thì điều đó có nghĩa là Chúa Giêsu không hiện diện trong đó, hoặc chỉ ‘đến một mức độ nào đó thôi’”

Đức Hồng Y Sarah cũng chỉ trích những xúc phạm đến Bí Tích Thánh Thể, bao gồm không chỉ trong những “Lễ Đen” của giáo phái thờ Satan, mà còn phải kể đến việc đón nhận Mình Thánh Chúa bất xứng, nghĩa là rước lễ trong tình trạng tội lỗi, và điều ngày nay người ta gọi là “intercommunion” – hiệp thông Thánh Thể - đón nhận Mình Thánh Chúa bởi những người không phải là Công Giáo.

Ngài nói thêm rằng chúng ta không nên đón nhận Mình Thánh Chúa như bất kỳ món ăn nào khác, người Công Giáo phải ý thức được sự thánh thiêng của Mình Thánh Chúa.

Đức Hồng Y đặt câu hỏi:

“Tại sao chúng ta lại quá tự phụ và vô cảm trước những dấu chỉ mà chính Thiên Chúa ban cho chúng ta để giúp chúng ta tăng trưởng về tâm linh và củng cố mối quan hệ mật thiết của chúng ta với Ngài? Tại sao chúng ta không quỳ gối xuống để nhận Mình Thánh Chúa như mẫu gương của các thánh? Thật là nhục nhã khi phải quì gối xuống trước mặt Chúa Giêsu Kitô sao?”
Source Catholic Herald Cardinal Sarah: Communion in the hand part of ‘diabolical attack’ on Eucharist
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Dạ Tiệc Mừng Xuân Mậu Tuất 2018 tại Sydney
Diệp Hải Dung
09:50 23/02/2018
Tối thứ Sáu 23/02/2018 khoảng 800 người đã đến nhà hàng Crystal Palace vùng Canley Heights Sydney tham dự buổi Dạ Tiệc Mừng Xuân Mậu Tuất 2018 do Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Tổng Giáo Phận Sydney tổ chức với mục đích bảo tồn nền Văn Hóa Việt Nam và tạo cơ hội giúp cho các bậc con em hiếu thảo nhớ đến ông bà cha mẹ trong dịp Xuân về.

Xem Hình

Trước khi khai mạc buổi tiệc, đoàn múa Lân chào mừng tất cả mọi người qua những điệu múa rất đặc sắc và sau đó là phần chào cờ Úc Việt. Ba Mc Kiên Giang, Châu Phụng và Minh Châu giới thiệu quý Cha Tuyên úy và quý vị Trưởng Ban các Giáo Đoàn trong Cộng Đồng tiến lên sân khấu để khai mạc Đêm Dạ Tiệc Mừng Xuân. Sau 3 hồi chiêng trống vang vọng, Cha Paul Văn Chi thay mặt Ban Tuyên Úy ngỏ lời chúc Tết mọi người đặc biệt là các cụ Cao Niên Năm Mới Mậu Tuất được bình an và hồng phúc. Tất cả mọi người trong nhà hàng đều đứng lên cùng hát nhạc phẩm Ly Rượu Mừng. Kế tiếp Cha Tuyên Úy trưởng Bùi Sơn Lâm chúc Tết mọi người và làm phép của ăn.

Phần văn nghệ mừng Xuân được tiếp nối với Liên Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh, Liên Đoàn Than Niên Công Giáo và Liên Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể trình diễn những màn hợp ca, song ca, đơn ca và vũ qua những nhạc phẩm về Xuân rất đượm tình quê hương. Lồng vào chương trình văn nghệ có tiết mục xổ số may mắn lấy hên đầu năm và đặc biệt là phần chúc Tết đến các Cụ Ông Cụ Bà cao niên được mời lên trước sân khấu và quý Cha Ban Tuyên Úy với đồng phục khăn đống áo dài cổ truyền Việt Nam lên ngỏ lời chúc Tết qúy cụ ông cụ bà phát Lộc Xuân. Anh Trần Anh Vũ Chủ tịch Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam TGP Sydney thay mặt Hội Đồng Mục Mục Vụ chúc Tết đến quý vị Cao Niên.

Trước khi kết thúc buổi Dạ Tiệc, anh Nguyễn Ngọc Khiêm Phó Chủ tịch CĐCGVN TGP Sydney ngỏ lời cám ơn quý Cha, quý Sơ, quý Thầy, quý quan khách và tất cả mọi người đã đến tham dự buổi Dạ Tiệc Mừng Xuân 2018 tạo cho Cộng Đồng thêm khởi sắc và có thêm tình đoàn kết yêu thương trong dịp đầu Xuân. Buổi Dạ Tiệc kết thúc bế mạc vào lúc 11.30pm

Diệp Hải Dung
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Lời cầu nguyện của người chiêm niệm, kỳ 2
Vũ Văn An
00:13 23/02/2018
Phong Trào Cải Cách Thệ Phản

Một trong “các bão tố lớn lao” thời Thánh Têrêxa là Phong Trào Cải Cách Thệ Phản. Dù thiếu nhiều thông tin, Thánh Têrêxa vẫn đích thân biết Giáo Hội “bị chia rẽ” bởi lạc giáo của phe “Luthêrô”, một hạn từ bao gồm mọi kẻ bất đồng với Giáo Hội từng giết chóc các linh mục, triệt hạ các nhà thờ, di chuyển Bí Tích Cực Trọng ra khỏi bàn thờ v.v... Ngài cũng biết Giáo Hội có Tòa Dị Giáo chuyên tìm những người lạc giáo, những người ly giáo, những nhà huyền nhiệm giả dối và những người truyền Đạo Do Thái, kết án họ, và thậm chí còn lên án tử hình họ nữa.

Hai phạm vi đang phủ bóng đen lên Giáo Hội được Thánh Têrêxa biết đến. Trước hết, đó là một Giáo Hội tội lỗi, thiếu sót và cần được cải tổ. Thứ hai, càng sống, ngài càng thấy các thiếu sót và tội lỗi của các nhà lãnh đạo Giáo Hội: các giám mục, kinh sĩ, linh mục, tu sĩ nam nữ. “Giữa bão táp dữ dằn như các bão táp Giáo Hội đang chịu đựng, chúng ta sẽ ra sao nếu không có lời cầu nguyện.” (L.13.21)

Mặc dù các thiếu sót của Giáo Hội, Thánh Têrêxa vẫn yêu thương Giáo Hội và ngài chịu đau khổ cho Giáo Hội để xây dựng Giáo Hội. Ngài là “con gái đích thực của Giáo Hội”. Ngài cũng đau khổ vì Giáo Hội. Ngài biết Giáo Hội có khuynh hướng quá nghiêng về nam giới, chỉ được điều khiển bởi nam giới; nam giới là những người duy nhất được giảng dậy và các quan tòa nam giới luôn để mắt và kết án nhiều thực hành tôn giáo của những người phụ nữ sùng đạo, mà trên hết, là những người thực hành việc cầu nguyện trong tâm trí và có các trải nghiệm huyền nhiệm. Giáo Hội phẩm trật của Tây Ban Nha thế kỷ 16 rất nghi ngờ việc cầu nguyện chiêm niệm, nhất là do các phụ nữ thực hiện.
   
Tây Ban Nha chinh phục Tân Thế Giới

Thánh Têrêxa cũng học biết Giáo Hội ở Tân Thế Giới nhờ tu sĩ Dòng Phanxicô là Alonso Maldonado, người có ghé qua Đan Viện Thánh Giuse năm 1567 và tường trình kinh nghiệm của ngài về người Da Đỏ bị các người khai hoang bóc lột, và thậm chí còn bị chính các nhà truyền giáo và truyền giảng Tin Mừng đối xử tàn tệ nữa, trong số những người này có 7 anh chị em của Thánh Têrêxa.



Ngài nhận ra rằng cánh tay phàm trần (“sức mạnh con người”) không đủ sức đem lại hợp nhất và hòa bình trong Giáo Hội. Điều cần phải có là các bạn bè mạnh mẽ của Thiên Chúa để nâng đỡ người yếu đuối: các phụ nữ (các Kitô hữu tốt lành) sẵn sàng lui vào các đô thị kiên cố (lâu đài) và chiến đấu cho các nhà lãnh đạo và thần học gia của Giáo Hội bằng việc cầu nguyện và các hy sinh. “Chính các cánh tay Giáo Hội, chứ không phải các cánh tay phàm trần, sẽ cứu chúng ta. Vì trong cả cánh tay Giáo Hội lẫn cánh tay phàm trần ta đều không ích lợi chi đối với Vua chúng ta, nên ta hãy cố gắng trở nên những người lấy lời cầu nguyện làm ích để giúp các đầy tớ của Thiên Chúa.” (W.3.2)

Trong quyển Đường Trọn Lành, Thánh Têrêxa nhấn mạnh rõ ràng rằng các chị em của ngài tham gia cuộc sống tu trì không phải cho riêng họ hay cho sự thánh hóa của riêng họ mà thôi. Họ bước vào cuộc sống đó vì Giáo Hội. Con cái của ngài phải mang các nhu cầu và đau khổ của Giáo Hội cận kề trái tim mình.

“Ôi chị em của tôi trong Chúa Kitô, chị em hãy giúp tôi nài van những điều ấy nơi Chúa. Đó là lý do Người đã tụ tập chị em lại với nhau tại đây. Đó là ơn gọi của chị em. Đó hẳn là những vấn đề bận bịu mà chị em đã dấn thân vào. Đó hẳn phải là những điều chị em ước nguyện, những điều chị em vẫn khóc cho; đó hẳn là những đối tượng chị em cầu xin, chứ không phải, thưa chị em của tôi, các việc bận bịu của thế gian. Vì tôi từng cười nhạo và thậm chí còn buồn rầu nữa trước những điều người ta tới đây xin chúng ta cầu nguyện cho: xin Đấng Uy Nghi ban cho giầu có và tiền bạc, và việc này do những người mà tôi muốn yêu cầu nên xin Người ơn thánh để chà đạp mọi sự dưới chân. Họ có ý ngay lành, và cuối cùng, chúng ta cầu theo ý họ vì lòng đạo đức của họ, mặc dù đối với tôi, tôi không nghĩ Chúa có bao giờ nghe tôi khi tôi cầu xin những việc như thế. Thế giới đang rực lửa; họ muốn lên án Chúa Kitô một lần nữa, có thể nói như thế, vì họ đang nêu lên hàng ngàn chứng cớ giả tạo chống lại Người; họ muốn tàn phá Giáo Hội, nên có phải chúng ta đang phí thì giờ cầu xin Chúa những điều mà nếu Chúa ban cho họ thì chúng ta sẽ có ít một linh hồn trên thiên đàng hơn không? Không, thưa chị em, nay không phải là lúc thảo luận với Thiên Chúa những chuyện ít quan trọng.” (W.1.5)

Thánh Têrêxa tin rằng cách tốt nhất giúp Giáo Hội là sống Tin Mừng, trở thành bạn tốt của Chúa Kitô và bạn tốt của nhau, dấn thân cầu nguyện liên lỉ cho các mục tiêu tông đồ: cầu nguyện cho Giáo Hội và cho thế giới. Thánh Têrêxa biết rằng các nữ tu mà ngài viết cho là các nữ tu chiêm niệm nội cấm, những người bị giới hạn trong việc nối vòng tay lớn với Giáo Hội trong các thời buổi khó khăn. Các chị không rao giảng hay dạy dỗ. Các chị giúp đỡ cách nào? Bằng cách sống Tin Mừng, trước hết, ngay trong cộng đồng của họ.  

“Ngoại trừ sự kiện nhờ cầu nguyện, chị em sẽ giúp đỡ rất nhiều, chị em cần có ước nguyện sinh ích cho toàn thế giới nhưng phải tập trung vào những người đang đồng hành với mình, và nhờ thế, việc làm của chị em sẽ lớn lao hơn vì chị em có nhiều nghĩa vụ hơn đối với họ. Chị em có nghĩ rằng sự khiêm nhường sâu xa như thế, sự hãm mình của chị em, việc phục vụ mọi người và đức ái lớn lao đối với họ, và tình yêu Chúa có chút ích lợi nào không? Ngọn lửa tình yêu này nơi chị em làm bừng nóng linh hồn họ, và bằng mọi nhân đức khác, chị em luôn làm họ tỉnh thức. Một phục vụ như thế sẽ không nhỏ bé nhưng rất lớn lao và rất đẹp lòng Chúa. Thực vậy, do những gì chị em làm, điều mà chị em có thể, Đấng Uy Nghi sẽ hiểu rằng chị em sẽ làm nhiều hơn thế. Nhờ vậy, Người sẽ dành cho chị em phần thưởng mà Người có thể dành nếu chị em mang nhiều linh hồn về cho Người.” (7M.4.14)

Con đường sống chiêm niệm của Thánh Têrêxa

Sau khi đã trình bầy với các chị em của ngài về mục đích của cuộc sống chung, Thánh Têrêxa đặt câu hỏi: “Chị em nghĩ chúng ta sẽ phải ra sao nếu chúng ta bị Thiên Chúa và thế giới coi là không bạo dạn lắm?” (W.4.2) Câu hỏi của Thánh Têrêxa nhấn mạnh tới việc là hơn việc làm (more being than doing). Chị em phải là thế nào, trong con người mình, nếu chị em muốn thành bạn tốt của Chúa Kitô và của nhau và tiến hành cuộc chiến thiêng liêng cho Giáo Hội?

Các chị phải sống một cuộc sống không ngừng cầu nguyện. “Qui luật nguyên thủy của ta qủa quyết rằng ta phải cầu nguyện liên lỉ”.[2] Nếu ta làm điều này một cách hết sức thận trọng, vì cầu nguyện liên lỉ là khía cạnh quan trọng nhất của luật dòng, nên các việc ăn chay, giữ kỷ luật và im lặng như Dòng đòi hỏi sẽ không sai phạm.” (W.4.1-2)

Kiểu nói “cầu nguyện liên lỉ” không được Thánh Têrêxa hiểu theo nghĩa như ta đọc trong Đường Trọn Lành; đúng hơn, ngài muốn nói tới cách hiện hữu, một cách hiện hữu đòi thinh lặng, cô tịch, bình an, các liên hệ đúng đắn, và lối sống đơn giản, vì cầu nguyện và lối sống xa hoa không đi đôi với nhau.
    
Khi nói tới đời sống cầu nguyện, Thánh Têrêxa trở nên thực tế và có tính toàn diện. Quả thực, ngài nói: “chị em yêu cầu tôi nói một điều gì đó về cầu nguyện ư? Được, xin chị em chờ trong giây lát, vì trước khi tôi nói bất cứ điều gì về các vấn đề nội tâm, tôi phải nhắc đến một vài điều cần thiết đối với những ai tìm kiếm cách cầu nguyện, cần thiết đến nỗi cho dù những người này không chiêm niệm bao nhiêu, họ vẫn có thể tiến xa trong việc phục vụ Chúa nếu họ sở đắc được các điều này. Và nếu họ không sở đắc được, thì họ không thể chiêm niệm bao nhiêu. Nếu họ nghĩ họ chiêm niệm, thì họ quả đã tự đánh lừa mình rất nhiều. Ba điều đó là: yêu thương nhau, không dính bén các tạo vật, và khiêm nhường thực sự, điều vốn là thực hành chính và bao gồm mọi điều khác. (W.4) Thánh Têrêxa nói với con cái ngài, và cả chúng ta, làm người chiêm niệm có nghĩa gì. Nó không phải là chuyện dành thì giờ để thinh lặng cầu nguyện hay sống trong một đan viện, mặc dù dành thì giờ qúy báu để cầu nguyện chiêm niệm là một điều chủ yếu đối với đặc sủng Têrêxa. Làm người chiêm niệm không phải là chuyện có các thị kiến hay thần ngôn, mà đúng hơn, là chuyện phải liên hệ với Thiên Chúa, với người khác, với sáng thế và với chính mình chúng ta như thế nào, và theo học thuyết của Thánh Gioan Thánh Giá, phải sống đời sống tin, cậy và mến ra sao. Trong tòa thứ 7 (Interior Castle), Thánh Têrêxa viết rằng: “tôi xin nhắc lại, điều cần thiết là nền tảng của chị em không chỉ bao gồm cầu nguyện và chiêm niệm. Nếu chị em không cố gắng vươn tới các nhân đức và thực hành chúng, chị em sẽ mãi là những người lùn.” (7M.4.9)

Như tôi từng nói trong hội nghị lần trước, Thánh Têrêxa dẫn dắt các chị em của ngài, và cả chúng ta nữa, đi vào một diễn trình hồi hướng và biến đổi con người mình. Nếu chúng ta muốn trở thành bạn tốt của Chúa Kitô, thì ta phải bước vào diễn trình thanh tẩy và biến đổi hàm chứa trong ba nhân đức này. Cam kết lớn lên trong ba nhân đức này sẽ củng cố tình bạn của ta với Chúa Kitô. Nếu cầu nguyện là một liên hệ, thì cầu nguyện bao hàm mọi mối liên hệ của ta và hàm nghĩa một diễn trình hồi hướng và biến đổi ý thức.

Thánh Têrêxa coi mọi đan viện Carmel như một lâu đài nhỏ của các Kitô hữu tốt lành đang giúp Giáo Hội bằng việc cầu nguyện và hy sinh của họ. Tôi nghĩ hình ảnh lâu đài còn có một ý nghĩa khác. Mỗi người là một lâu đài, là kim cương, là hòn ngọc đông phương, là cây sự sống trồng ở biển sự sống, tức Thiên Chúa, vốn là các biểu tượng cho phẩm giá con người chúng ta như là nơi cư ngụ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, lâu đài nội tâm của Thánh Têrêxa đơn giản không phải là một “lâu đài say đắm lòng người” như ta thấy ở Disney World, nhưng, là lâu đài chiến đấu, nơi diễn ra trận chiến thiêng liêng. Muốn giúp Giáo Hội và thế giới, chúng ta không những phải cầu nguyện, mà còn phải chiến đấu với các lực lượng bóng tối ngay trong trái tim mình, những lực lượng vốn góp phần vào sự ác của thế giới này, như lòng ích kỷ, giận dữ, các khuynh hướng bạo động, tính ganh tị, ghen ghét v.v... của ta.

Có một câu truyện về một vị giáo phụ sống trong sa mạc. Vị này nói rằng ngài vào sa mạc vì ngài giống một con chó cần được nhốt lại để đừng cắn ai. Các giáo phụ và giáo mẫu sa mạc tin rằng việc nội tâm do các ngài thực hiện tại hang trú của các ngài là để làm sạch môi trường. Các ngài càng được chữa khỏi các chứng ích kỷ, giận dữ, kiêu căng, ham muốn v.v... thì xã hội bên ngoài sa mạc càng được chữa lành và biến đổi. Ta tin rằng chiêm niệm có hiệu quả chữa lành và biến đổi đối với thế giới. Một cộng đồng chiêm niệm giống như một trung tâm năng lượng phát ra sự chữa lành. Tình yêu chiêm niệm có sức chữa lành. Bởi thế, ta phải thực hiện việc nội tâm của ta và mở lòng đón nhận hành động thanh tẩy của Thiên Chúa qua việc cầu nguyện chiêm niệm, thanh tẩy ta khỏi gốc gác của xáo trộn và tội lỗi trong tâm hồn ta. Hiệu quả chữa lành và biến đổi của tình yêu chiêm niệm sẽ góp phần vào việc chữa lành thế giới bị thương của ta, vốn bị sự ác, bạo lực và chết chóc làm hại.

Kỳ sau: Quay hướng nhìn về Chúa Giêsu
 
Lời cầu nguyện của người chiêm niệm, kỳ 3
Vũ Văn An
16:14 23/02/2018
Quay hướng nhìn về Chúa Giêsu  

Tôi đã trưng dẫn cái hiểu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về đời sống chiêm niệm: hướng nhìn về Chúa Giêsu, trở về tâm điểm vì “tình yêu đích thực luôn có tính chiêm niệm.” Hướng nhìn về Chúa Giêsu (Tâm Điểm của ta) là lời Thánh Têrêxa khuyên ta. Theo tôi, một trong các bản văn đẹp nhất tổng hợp được đời sống chiêm niệm theo Thánh Têrêxa tìm thấy ở chương 26 cuốn Đường Trọn Lành.

“Nếu chị em tiến tới chỗ quen thuộc với việc có Người ở bên cạnh, và Người nhận thấy chị em làm thế vì tình yêu và chị em cố gắng làm vui lòng Người, thì chị em, như người ta thường nói, không thể nào rời xa Người được; Người sẽ không bao giờ làm chị em thất vọng; Người sẽ giúp đỡ chị em trong mọi cơn thử thách của chị em; chị em sẽ thấy Người ở khắp nơi. Chị em có nghĩ có một người bạn như thế ở bên cạnh là một chuyện nhỏ không?” (W.26.2)

Thánh Têrêxa cũng hỏi cùng một câu hỏi trên ở chương 22 cuốn Đời Sống của ngài: “Ta còn ước ao điều gì hơn là có một người bạn tốt như thế ở bên cạnh ta, người sẽ không bao giờ bỏ rơi ta trong các khó nhọc và khổ não của ta, như bạn bè ở thế gian vẫn thường bỏ rơi? Phúc cho ai yêu Người thực sự và luôn giữ Người ở bên cạnh!” (L.22.7)[1]

Đối với Thánh Têrêxa, chiêm niệm (đời sống chiêm niệm) là dán mắt ta vào Chúa Giêsu và để cái nhìn yêu thương của Người biến đổi ta. Điều này có nghĩa: nhận Chúa Giêsu làm bạn, vun sới tình bạn thân mật với Người, dành thì giờ ở một mình với Đấng “ta biết Người yêu ta,” và sánh bước với Người trong mọi khía cạnh của đời ta: trong cầu nguyện riêng tư, trong Thánh Thể, trong Các Giờ Kinh Phụng Vụ, trong lúc đọc sách thánh theo lối cầu nguyện, trong sinh hoạt anh em và chị em, và trong mọi biến cố và đòi hỏi của cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra, để hỗ trợ một lối sống chỉ chăm chú đầy yêu thương tới Chúa Giêsu, Thánh Têrêxa còn lập ra nội cấm làm phương thế giữ cho cái nhìn của ta (đời ta) luôn dán chặt vào Chúa Kitô và mở lòng ra đón nhận trải nghiệm sâu sắc hơn về Thiên Chúa. Ta phải nhớ rằng ý tưởng của Thánh Têrêxa về đan viện Thánh Giuse là để sửa lại phong tục mừng Lễ Nhập Thể vốn cho phép ra ngoài nhiều quá vì các lý do khác nhau: nghèo khó, bệnh tật, an ủi các ân nhân, và du hành như ngài đã làm.

Đối với Thánh Têrêxa, trải nghiệm Thiên Chúa là một trải nghiệm về Chúa Kitô. Do đó, ngài khuyên ta duy trì cái nhìn của ta chú mục vào một mình Người.

“Tôi không yêu cầu chị em lúc này phải nghĩ đến Người hay rút tỉa nhiều ý niệm hoặc dùng tri thức, thực hiện các suy niệm lâu giờ và tinh tế. Tôi không yêu cầu chị em làm bất cứ điều gì khác ngoài việc nhìn ngắm Người. Vì ai có thể làm chị em thôi không hướng con mắt linh hồn của chị em về phía vị Chúa này, cho dù là làm thế trong giây lát nếu không thể làm hơn? Chị em có thể nhìn những điều rất xấu xa; há chị em lại không thể nhìn một điều đẹp đẽ không thể tưởng tượng được hay sao? Này, hỡi các con, Phu Quân của các con không bao giờ rời mắt khỏi các con. Người vốn đau khổ vì các con phạm cả ngàn vi phạm và những chuyện ghê tởm xấu xa chống lại Người, nhưng sự đau khổ này vẫn không đủ để Người thôi nhìn các con. Có quá đáng hay không khi yêu cầu các con đừng nhìn những sự vật ở bên ngoài nữa để đôi lúc có thể nhìn lên Người? Này, Người không chờ mong điều gì khác, như Người từng nói với nàng dâu, [2] hơn là ta nhìn Người. Càng ước muốn Người, các con sẽ càng tìm thấy Người. Người qúy việc ta nhìn Người đến nỗi Người sẽ không thiếu một lãng quên nào.” (W.26.3) “Nếu chị em đang vui, chị em hãy nhìn Người như Đấng Sống Lại. Chỉ tưởng tượng Người từ mồ chỗi dậy ra sao cũng đủ đem lại nềm vui cho chị em rồi... Nếu chị em đang gặp thử thách hay sầu buồn, chị em hãy nhìn Người trên đường tới thửa vườn: Người buồn rầu đến chừng nào trong linh hồn; Người sẽ quên các buồn rầu này để an ủi chị em trong cơn buồn rầu của chị em, chỉ vì chị em đã chạy tới với Người để được an ủi, và chị em sẽ quay đầu nhìn Người.” (W.26.4-5)

Chúa Giêsu Kitô là “cuốn sách sống” đối với Thánh Têrêxa. (L.26.5) Ta không thể hiểu việc cầu nguyện hay ý niệm sống chiêm niệm của Thánh Têrêxa nếu không có Chúa Giêsu Kitô. Ngài là một phép lạ của cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Sống Lại. Việc ngài khám phá ra con người Kitô là khám phá vĩ đại nhất của đời ngài. Nó là chìa khóa dẫn tới các cuộc hồi tâm của ngài năm 1554 trước Đức Kitô đầy thương tích và năm 1556 nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Ngắm nhìn vẻ đẹp của Chúa Giêsu Sống Lại đã chữa lành cảm giới của ngài và giải thoát để ngài sống tự do không bị tính ích kỷ chi phối nữa. (L.37.4)[2]  Cầu nguyện như “làm bạn” với Chúa Giêsu đã thay đổi đời ngài một cách năng động. Mối liên hệ của ngài với Chúa Kitô là một trải nghiệm tiệm tiến đầy năng động, một trải nghiệm đã trở nên thâm hậu hơn, nội thẳm hơn, thực chất hơn, bản vị hơn, và nhân bản hơn.

“Một tình yêu và một lòng tin tưởng lớn hơn nhiều dành cho vị Chúa này bắt đầu lớn mạnh trong tôi khi tôi coi Người như Đấng tôi được chuyện trò liên tục.  Tôi thấy Người là một con người, dù Người là Thiên Chúa; Người không ngạc nhiên trước các yếu đuối của con người: Người hiểu bản chất khốn cùng của chúng ta, chịu nhiều sa ngã do tội lỗi đầu tiên mà Người tới để sửa chữa. Tôi có thể nói với Người như với một người bạn, dù Người là Chúa.” (L.37.5)   
  
Ngoài ra, Thánh Têrêxa muốn nối kết các chị em của ngài với các nguồn gốc nguyên thủy và ẩn sĩ của Dòng và do đó, chuẩn bị tư thế để họ trải nghiệm Thiên Chúa và các thực tại siêu nhiên một cách huyền nhiệm. Thánh Têrêxa thường hay gọi tinh thần này là “ẩn sĩ”. Đối với ngài, hình ảnh các vị ẩn sĩ cao niên trên Núi Carmel luôn hiện diện trước ngài. Ngài cảm thấy các nữ tu của ngài không những là các nữ tu mà còn là các nữ ẩn sĩ nữa.

Trở về Tâm Điểm

Quan niệm của Đức Giáo Hoàng Phanxicô coi đời sống chiêm niệm như là cuộc huấn luyện cái nhìn của trái tim ta và việc ta trở về tâm điểm nhắc tôi nhớ đến một bản văn trong bài thơ Ngọn Lửa Sống Động của Tình Yêu. Trong mấy câu thơ đầu của bài này, Thánh Gioan Thánh Giá lấy ẩn dụ hòn đá để mô tả cuộc hành trình của ta tiến về tâm điểm con người mình nơi Thiên Chúa cư ngụ. Thiên Chúa là tâm điểm của ta, là cơ sở cho hữu thể của ta. “Tâm điểm linh hồn là Thiên Chúa.” (Fl.12) Giống hòn đá rơi xuống tâm điểm sâu xa nhất của nó trên trái đất, chúng ta, từ trong nội tại, cũng được đẩy về hướng Thiên Chúa vì chúng ta vốn được tạo nên vì Thiên Chúa, được tạo dựng từ tình yêu và cho tình yêu. Thánh Gioan nói với ta rằng hành trình tiến về tâm điểm chính là hành trình yêu thương. Tình yêu đem chúng ta vào tâm điểm của chúng ta. Trở nên hướng tâm là chuyện lớn lên trong tình yêu.

Thánh Gioan viết: “Tình yêu là xu hướng, sức mạnh, và lực lượng dành cho linh hồn trong việc thực hiện cuộc đi về với Thiên Chúa, vì tình yêu hợp nhất nó với Thiên Chúa. Mức độ yêu thương càng cao, nó càng đi sâu hơn vào Thiên Chúa và đặt tâm điểm nơi Người. Tình yêu càng lớn sự hợp nhất càng cao, và nhờ cách này, chúng ta có thể hiểu được nhiều biệt thự mà Con Thiên Chúa từng tuyên bố là có trong nhà Cha Người. (Jn. 14:2)

Do đó, để linh hồn có thể ở trong tâm điểm của nó là Thiên Chsúa, chỉ cần nó sở hữu một mức độ yêu thương, vì chỉ cần một mức độ yêu thương, nó cũng hợp nhất với Người nhờ ơn thánh. Nếu có đến hai mức độ, nó sẽ hợp nhất và tập trung vào Thiên Chúa ở một tâm điểm nữa, sâu xa hơn. Nếu đạt tới mức độ thứ ba, nó sẽ ở tâm điểm thứ ba. Nhưng một khi đạt tới mức độ cuối cùng, tình yêu Thiên Chúa sẽ đến làm linh hồn bị thương ở tâm điểm tối hậu và sâu xa nhất của nó, nghĩa là rực chiếu nó và biến đổi trọn cả hữu thể nó, lực lượng của nó, và sức mạnh của nó, và theo khả năng của nó, cho tới khi nó giống như Thiên Chúa.” (F1.13)

Càng trở nên yêu thương hơn, ta càng được hợp nhất với Thiên Chúa và đặt tâm điểm nơi Người, và càng đặt tâm điểm nơi Thiên Chúa, ta càng được chữa lành và biến đổi để có thể chiếu tỏa tình yêu Thiên Chúa khắp thế giới.     

Trong linh đạo của mình, ta thường dùng các kiểu nói “tâm điểm,” “đặt tâm điểm,” và “nội tâm,” cùng “nội tâm tính” để nói về cuộc hành trình thiêng liêng và đời sống chiêm niệm. Ta có khuynh hướng nghĩ tới việc đi vào tâm điểm hay bên trong như là việc đi vào một nơi ‘địa dư’ nào đó bên trong mình. Dán mắt nhìn vào “tâm điểm” và học cách trở thành “bên trong” đều là các ẩn dụ, không phải là nơi địa dư, nhưng để chỉ phẩm chất hữu thể và ý thức. Chúng diễn tả cách liên hệ với Thiên Chúa, với người khác và với sáng thế. Trong các Sách Tin Mừng, Chúa Giêsu nói tới Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa không phải là một nơi, nhưng là Một Người, tức Thiên Chúa được mặc khải nơi Chúa Giêsu Kitô. Do đó, vào Nước Thiên Chúa là bước vào mối tương quan liên ngã với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, và trong mối liên hệ này, ta được hồi tâm, biến đổi và học cách yêu thương như Thiên Chúa yêu thương. Trong Thư Gửi Tín Hữu Rôma, Thánh Phaolô nói với ta rằng Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, mà là chuyện “chính trực, bình an, và hân hoan của Chúa Thánh Thần.” (Rm. 14:17) Chính trực, bình an và hân hoan của Chúa Thánh Thần là các phẩm tính của hữu thể con người và lối họ liên hệ với đời sống và người khác.

Khi nói rằng hành trình tiến về tâm điểm của ta, tức cuộc hành trình của ta tiến về Thiên Chúa mà nơi Người ta sống, di chuyển, và có hữu thể của mình (Sách Công Vụ 17:28) là cuộc hành trình tình yêu, ta muốn hiểu tình yêu ra sao? Tình yêu luôn là một từ ngữ nguy hiểm, nhất là trong nền văn hóa của ta, vì có quá nhiều hiểu lầm liên quan tới bản chất tình yêu chân thực. Ta có khuynh hướng nghĩ đến tình yêu như một trạng thái được lý tưởng hóa, một cảm xúc lãng mạn hay một kinh nghiệm đầy an ủi lúc ta được khẳng nhận, hay cảm thấy được cần đến và chăm sóc. Ta có thể nói một cách hùng hồn và “huyền nhiệm” về tình yêu trong linh đạo. Trong Tự Sắc Thiết Lập Năm Thánh Đặc Biệt về Lòng Thương Xót, Đức Giáo Hoàng Phanxicô viết rằng: “Dù sao, tình yêu cũng không bao giờ có thể chỉ là một điều trừu tượng. Do chính bản chất của mình, nó chỉ một điều cụ thể: ý định, thái độ, tác phong biểu lộ trong đời sống hàng ngày.” [3] Dorothy Day thường trích dẫn cuốn tiểu thuyết Anh Em Nhà Karamazov của Dostoevsky: “Tình yêu trong hành động là một điều khắc nghiệt và đáng sợ hơn là tình yêu trong mộng mơ.” Chúa Giêsu và các thánh của ta dạy ta ý nghĩa của tình yêu chân thực bằng chính cuộc đời của các ngài, chứ không bằng thứ “tình yêu trong mộng mơ.” Trong thông điệp đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, Thiên Chúa là Tình Yêu, ngài viết rằng nếu ta muốn biết ý nghĩa của tình yêu chân chính, thì ta phải bắt đầu chiêm niệm cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Giêsu. [4] Cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Giêsu bị đóng đinh là mẫu mực của tình yêu chân thực vì Chúa Giêsu hiến mạng sống của Người một cách tự ý, chỉ vì tình yêu mà thôi. Khi Phôngxiô Philatô tra vấn Chúa Giêsu, ông ta ráng đe dọa Người bằng cách nói rằng “tôi có thể cứu đời ông cũng như lấy nó đi.” Chúa Giêsu đáp lại rằng “Không ai có thể lấy mất đời tôi; tôi tự ý hiến nó.” (Jn. 19:10-11) [5]  Tình yêu và đau khổ đi đôi với nhau, tay trong tay, vì tình yêu bao hàm hy sinh.

Các Sách Tin Mừng dạy ta về tình yêu triệt để của Chúa Giêsu. “Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, hãy chìa má bên kia, hãy đi thêm một dặm nữa, hãy cho mà đừng đòi đáp lại, hãy tha thứ thì anh em sẽ được tha thứ; đừng phán đoán để khỏi bị phán đoán; hãy có lòng thương xót như Cha trên trời của các con thương xót.” (Mt. 5:43-48) Mátthêu 25 vào tận cốt lõi của tình yêu Tin Mừng “Khi Ta đói, các con đã cho Ta ăn, Ta trần truồng, các con đã mặc áo quần cho Ta; ta đau yếu các con đã thăm viếng Ta... Điều các con làm cho người hèn mọn nhất trong các anh chị em Ta, là các con làm cho Ta.”

Ở nơi Tòa Thứ Tư (Interior Castle) Thánh Têrêxa nói rằng cầu nguyện không phải là chuyện nghĩ nhiều, mà là yêu nhiều, “nên chị em hãy làm điều gì kích thích chị em yêu thương hơn cả.” Tuy nhiên, ngài thắc mắc không biết ta có hiểu bản chất của tình yêu hay không. Ngài viết: “Có lẽ ta không biết tình yêu là gì. Tôi không ngạc nhiên lắm, vì nó không hệ ở việc vui thích lớn lao nhưng hệ ở việc ước ao một cách rất cương quyết nhất định sẽ làm vui lòng Thiên Chúa trong mọi sự bằng cách cố gắng hết sức không xúc phạm đến Người, và bằng cách cầu xin Người ơn phát huy vinh dự và vinh quang của Con Người và việc tăng tiến của Giáo Hội Công Giáo. Đó là các dấu chỉ tình yêu. Chị em đừng nghĩ vấn đề hệ ở việc không nghĩ tới điều gì khác, và nếu chị em chia trí một chút thì sẽ đánh mất mọi sự.” (4D.1.7)

Điều đáng lưu ý là Thánh Têrêxa đã nhắc lại cùng một giáo huấn này trong chương năm cuốn Các Nền Tảng khi ngài viết rằng thực chất của việc cầu nguyện hoàn hảo không phải là nghĩ nhiều mà là yêu nhiều. (F.5.2)

Nhưng khi Thánh Têrêxa nói rằng thực chất của cầu nguyện hoàn hảo là tình yêu, chứ không ấp ủ các ý nghĩ thiêng liêng cao vời, ngài muốn mở rộng cái hiểu của ngài về cầu nguyện như việc yêu thương. Thánh Têrêxa đặt câu hỏi: “Người ta đạt được tình yêu này cách nào?” Ngài trở nên thực tế và mở rộng tình yêu như lời cầu nguyện cho đời sống, cho các đòi hỏi của đời sống hàng ngày, nhất là khi nó kéo theo đức vâng lời và đức ái.   
    
“Người ta đạt được tình yêu này cách nào? Bằng cách nhất quyết làm việc và chịu đau khổ, và làm thế khi có dịp. Qủa thực, bằng cách nghĩ đến những gì ta mắc nợ Chúa, Người là ai, và ta là ai, thì quyết tâm của linh hồn sẽ phát triển, và lối suy nghĩ này rất có công và thích hợp đối với những người mới bắt đầu. Nhưng phải hiểu rằng điều này đúng miễn là không điều gì cản trở đức vâng lời và phải gây ích cho người lân cận của mình. Khi nào một trong hai điều này hiện diện thì còn tùy thời gian, và cả việc từ bỏ điều ta hết lòng mong dành cho Thiên Chúa, tức việc, theo ý ta, được ở một mình nghĩ tới Người và vui thú trong những điều vui thú Người ban cho ta. Để qua một bên các vui thú này vì một trong hai điều kia là dành vui thú cho Người và làm việc cho Người, như Người từng nói: điều các con làm cho những người hèn mọn nhất này là các con làm cho Thầy.[2] và trong các vấn đề liên quan tới đức vâng lời, Người không muốn linh hồn nào thực sự yêu thương Người đi theo con đường nào khác hơn là con đường Người đã đi: vâng lời cho tới chết: obediens usque ad mortem.[3]” (F.5.3)

Nói cách khác, tình yêu như lời cầu nguyện không phải là việc thinh lặng nghỉ yên trong vòng tay Người ta Yêu Thương. Yêu là một động từ, một hành động. Ta đạt được tình yêu này bằng việc nhất quyết làm việc và chịu đau khổ trong bối cảnh vâng lời và yêu thương: vâng lời theo nghĩa gốc La Tinh có nghĩa là “ob-audire,” nghĩa là thận trọng lắng nghe, chú ý lắng nghe. Ta lớn mạnh trong tình yêu bằng cách thận trọng lắng nghe giây phút hiện tại, lắng nghe người khác và nhu cầu của họ, và lưu tâm tới các bổn phận trong ơn gọi của ta. Khi ta đáp ứng các nhu cầu của con người, thì ta có tình yêu chân chính, và do đó, việc cầu nguyện. “Người yêu đích thực yêu khắp mọi nơi và luôn nghĩ tới Người ta Yêu Thương! Sẽ là một điều khó có thể chịu đựng được khi ta chỉ có thể cầu nguyện lúc ở một góc nào đó.” (F.5.16)

Thánh Têrêxa đưa ra điều trên ở Tòa Thứ Năm trong đó, ngài nhấn mạnh đến tầm quan trọng của đức ái trong cuộc sống hàng ngày. 
   
“Khi tôi thấy các linh hồn tha thiết cố gắng hiểu việc cầu nguyện họ đang có và rất rầu rĩ khi đang làm việc này, vì dường như họ không dám để tâm trí họ di động hay khuấy động kẻo sự vui thích và sùng mộ thiêng liêng của họ bị mất đi, thì điều này làm tôi hiểu họ ít hiểu xiết bao về cách phải làm sao mới đạt được sự kết hợp; họ nghĩ trọn vấn đề hệ ở các điều này. Không đâu, thưa các chị em, tuyệt đối không; các việc làm là điều Chúa muốn! Người muốn nếu chị em thấy một chị bị bệnh, mà chị em có thể làm chị ấy bớt bệnh, thì chị em phải cảm thương chị ấy và đừng lo mất lòng sùng mộ kia; và nếu chị ấy bị đau, chị em cũng phải cảm nhận cái đau này; và, nếu cần, chị em phải nhịn ăn để chị ấy ăn, không phải vì chị ấy cho bằng chị em biết đấy đó là điều Chúa của chị em muốn. Đấy mới là sự kết hợp thực sự với thánh ý Người, và nếu chị em thấy người nào đó được ca ngợi, thì Chúa muốn chị em phải vui hơn là chính chị em được ca ngợi. Điều này, quả thực, là điều dễ dàng vì nếu chị em có lòng khiêm nhường, chị em sẽ cảm thấy buồn khi thấy chính chị em được ca ngợi. Nhưng hạnh phúc nào diễn ra khi người ta biết đến các nhân đức của Các Chị thì đó là điều rất tốt; và khi ta thấy một lỗi lầm nào đó nơi Các Chị, thì cũng sẽ là rất điều tốt nếu ta buồn và dấu lỗi lầm này như thể là của chính chúng ta.” (5M.3.11)

Khi ta nói tới đời sống chiêm niệm như là một cuộc huấn luyện để hướng cái nhìn tâm hồn ta về tâm điểm của ta, là chúng ta nói về việc lớn lên trong tình yêu Tin Mừng, nghĩa là, yêu như Chúa Giêsu yêu. Dĩ nhiên, để lớn lên trong tình yêu này, nghĩa là tình yêu Thiên Chúa, ta cần chính tình yêu của Người để thanh tẩy, chữa lành và biến đổi ta khỏi mọi điều kình chống và ngăn cản tình yêu Thiên Chúa khỏi chiếm hữu đời ta và chiếu sáng qua ta. Chính trong việc cầu nguyện chiêm niệm hiểu như “việc chia sẻ thân mật giữa bạn bè với Đấng chúng ta biết là yêu thương chúng ta” (L.8.5), hay như Thánh Gioan Thánh Giá từng mô tả: “như một việc Thiên Chúa chẩy tràn vào linh hồn để tẩy rửa và chữa lành các ngu dốt và thiếu sót của ta và bí mật dạy ta yêu thương, để ta lớn lên trong tình yêu Tin Mừng.” (2N.5.1) [6]   

Trong Ca Khúc Thiêng Liêng của Thánh Gioan Thánh Giá, ta có một đoạn văn tuyệt vời hỗ trợ cho học lý của Thánh Têrêxa. Thánh Gioan cho ta hay: song song với việc cầu nguyện và chiêm niệm, ta còn phải ráng đừng sai phạm trong tình yêu của ta đối với Thiên Chúa và người lân cận bằng cách thực hành điều Thánh Phaolô dạy ta: điều đáng lưu ý là Thiên Chúa không đặt ơn thánh và tình yêu của Người trong linh hồn ngoại trừ theo ước muốn và tình yêu của nó. Những ai thực sự yêu mến Thiên Chúa phải ráng đừng sai phạm trong tình yêu này, vì nhờ thế họ sẽ khiến Thiên Chúa, nếu ta được phép nói như thế, yêu họ hơn nữa và thấy vui thú nơi họ. Và để đạt được đức ái này, ta nên thực hành điều Thánh Phaolô dạy:

“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả (phù hợp với đức ái) [1 Cor. 13:4-7].” (SC.13.12)

Kiên nhẫn, hiền hậu, khiêm nhường, tin, cậy, mến, đây là các nhân đức nâng đỡ, đồng hành, và thâm hậu hóa việc cầu nguyện chiêm niệm.

Kỳ sau: Cầu Nguyện và Dấn Thân