“Chúa là Đấng từ bi nhân hậu”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Chúa là Đấng từ bi nhân hậu”, chân lý ngàn đời Thánh Vịnh đáp ca tuyên xưng, một lần nữa, thể hiện đậm nét tính cách của Thiên Chúa qua các bài đọc hôm nay. Trước lòng từ bi đó, người ta có thể đặt câu hỏi, như vậy “Có công bằng không?”; ‘câu trả lời đúng, đó là một câu hỏi sai’. Câu hỏi này sai; bởi lẽ, Thiên Chúa khác con người; công bằng của Thiên Chúa là xót thương.
Ngôn sứ Mika cho thấy điều đó, “Chúa thương xót chúng tôi, dày đạp những bất công của chúng tôi dưới chân Chúa, và ném mọi tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển”. Thiên Chúa yêu dân Người, và dân ngoại có thể hỏi, như thế “Có công bằng không?”; ‘câu trả lời đúng, đó là một câu hỏi sai’.
Tin Mừng hôm nay, ‘kiệt tác’ của Luca, nói đến một người cha vô cùng từ bi khi chia gia tài cho các con dù ông biết, con thứ sẽ ra đi; và vô cùng nhân hậu khi ông đón nó trở về vì ông hằng hy vọng. Bởi lẽ, với ông, nó ‘chưa bao giờ không phải là con’; và không ai có thể lấy đi sự thật đó, kể cả ma quỷ! Người con cả không chấp nhận điều đó và tự hỏi, như vậy “Có công bằng không?”; ‘câu trả lời đúng, đó là một câu hỏi sai’.
Có công bằng không khi người cha giết con bê đã vỗ béo và tổ chức một bữa tiệc linh đình để chào đón đứa con ngỗ ngược trở về? Có công bằng không khi con cả, một đời trung thành, mà cũng một người cha đó, dường như không bao giờ cho anh một con dê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn? Thật dễ dàng để chúng ta sống theo cách mà mọi thứ trở nên “công bằng”, đang khi sự rộng lượng của Thiên Chúa vượt xa những gì được coi là công bằng. Như vậy, nếu muốn thông phần vào lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa, chúng ta còn phải ‘học cách vui mừng’ khi thương xót quá độ như Người nữa; như thế “Có công bằng không?”, ‘câu trả lời đúng, đó là một câu hỏi sai’.
Hành động xót thương của người cha dành cho đứa con hư đốn chính là điều nó đang thật sự cần. Nó cần biết cha nó vẫn yêu nó và ông quá đỗi vui mừng khi nó trở về, bất kể quá khứ nó thế nào. Vì vậy, nó cần chứng kiến ‘tầm lớn lao’ của lòng thương xót nơi cha để bảo đảm cho nó rằng, cha nó yêu nó; nó cần thêm những ‘an ủi chưa từng có’ này để có thể thuyết phục nó rằng, nó đã lựa chọn đúng đắn khi trở về. Người con cả, bao năm chung thủy nhưng sự bất mãn của anh đến từ một sự thật tiềm ẩn rằng, bản thân anh đang thiếu một lòng thương xót ở ‘tầm lớn lao’ như trái tim cha anh đang có. Anh không yêu đứa em đến mức như cha và do đó, không thấy cần đưa ra một lời an ủi nào cho em để đứa em hiểu rằng, nó đã được tha thứ, đáng được chào đón và thật đúng khi chọn lựa trở về. Ai khao khát nhận được lòng thương xót, người ấy sẵn sàng tặng trao nó cho kẻ cần nó nhất; ân sủng không phải là công bằng, đó là sự hào phóng đến mức gây sốc.
Anh Chị em,
“Chúa là Đấng từ bi nhân hậu”. Chúng ta không thể cảm nghiệm được điều đó, nếu chưa trải nghiệm ít nữa một lần bản thân mình lỗi lầm mà được thứ tha. Vâng, chúng ta quá lỗi lầm; không là con thứ, lắm lần chúng ta là con cả; không là đứa con hư hỏng trên đây, chúng ta cũng là những đứa con chỉ muốn em mình đi cho khuất mắt. Sự hư đốn của con người không phá đi chức vị làm con Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã đổ máu ra để cứu chuộc nó; sự hư đốn của con người cũng không huỷ hoại tình huynh đệ giữa những con người. Cả hai đứa con hôm nay đều ở ngoài nhà cha; con út không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi; con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào. Sám hối là ‘sự trở về’ của con thứ, là ‘sự trở vào’ của con cả; sám hối là không còn đặt ra những câu hỏi như vậy “Có công bằng không?”; ‘câu trả lời đúng, đó là một câu hỏi sai’.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, Chúa quá thương xót con, xin giúp con biết tặng trao lòng thương xót cho những người đáng xót thương nhất; nhờ đó, con sẽ không bao giờ dám đặt ra những câu hỏi sai lầm”, Amen.
(Tgp. Huế)
39. Nếu chúng ta có tội, thì những lời khen ngợi của người khác sẽ không thể tha tội và hình phạt cho chúng ta; nhưng nếu chúng ta làm việc thiện mà người khác coi thường, thì cũng không thể trừ khử công lao của chúng ta.
(Thánh Augustine)Lm. Giuse Maria Nhân Tài. csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"
-----------
http://www.vietcatholicnews.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Có một nhà quan nói với đầy tớ:
- “Mày đi một vòng vào trong kinh thành giùm tao”.
Lời nói chưa dứt, thì đầy tớ vội vàng đi như bay vào kinh thành, người đầy tớ đi đến trước cổng của huyện, huyện phủ đang truy thuế ruộng, người ta đứng sắp thành hàng rất dài, mọi người nhìn thấy anh ta đi vào thì đều nghĩ rằng để tên anh ta đứng đầu cho khỏi bị xét hỏi, thoáng một cái có chín người đến vây quanh năn nỉ anh ta lên đứng hàng đầu.
Huyện quan nhìn thấy thì đánh mỗi người mười hèo, anh đầy tớ trở về nhà đem chuyện bị huyện quan đánh mười hèo nói với chủ nhân, chủ nhân cười nói:
- “Đồ ngốc”.
Đầy tớ hỏi lại:
- “Lẽ nào cả chín người kia đều ngốc sao?”
(Tiếu Tán)
Suy tư 81:
Có những cô gái nhà quê lên thành phố để hy vọng được đổi đời, nhưng đời chưa thấy đổi mà mình thì trở thành đỉ điếm, trở thành miếng mồi béo bở của những người xấu lợi dụng; có những người tò mò muốn lên thành phố chơi cho biết cái sự xa hoa phồn vinh của nó, nhưng đi chưa tới thành phố thì tất cả áo quần tiền bạc đều bị kẻ xấu móc túi lấy mất tiêu...
Thành phố thì đẹp và văn minh hiện đại cho nên người nhà quê rất thích đi lên thành phố khi có dịp.
Thành phố là nơi có nhiều cơ hội để những người có chí hướng ăn nên làm ra, nhưng thành phố cũng là cái bẩy người khổng lồ dành cho những ai ngây thơ hiền hòa chất phác.
Đồng tiền thì chỉ có hai mặt, nhưng thành phố thì có muôn mặt, cho nên chỉ có những ai trong cuộc sống thường lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam dẫn đường thì mới khỏi bị lạc và khỏi bị sai lầm mà thôi...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài. csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
-----------------
http://www.vietcatholicnews.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
PHÚC ÂM: Lc 4, 24-30
“Như Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà thôi đâu”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội đường rằng): “Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria”. Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.
Ðó là lời Chúa.
Hãng tin A.P. đăng tải bản tin mới nhất lúc 3 giờ 19 sáng ngày 6 tháng 3, cho hay lúc 11:15 giờ sáng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đến thành phố Ur cổ kính để thực hiện cuộc gặp gỡ liên tôn nhằm thúc giục người Hồi giáo, người Kitô giáo và các tín hữu khác của Iraq để qua một bên các thù hận lịch sử và cùng nhau làm việc cho hòa bình và thống nhất.
Hôm thứ Bảy, Đức Phanxicô đã đi tới nơi sinh theo truyền thống của Tổ phụ Abraham, được người Hồi giáo, Kitô giáo và người Do Thái tôn kính, để củng cố thông điệp của ngài về lòng khoan dung và tình huynh đệ liên tôn trong chuyến thăm lần đầu tiên của một vị Giáo hoàng tại Iraq.
Cuộc gặp gỡ diễn ra dưới bóng ngôi đền tráng lệ của Ur (ziggurat), tức khu phức hợp khảo cổ 6,000 năm tuổi gần Nasiriyah ở miền nam Iraq.
Cuộc gặp gỡ liên tôn của Đức Phanxicô tại Ur diễn ra sau cuộc gặp gỡ lịch sử của ngài ở Najaf gần đó với giáo sĩ Shiite hàng đầu của Iraq, Đại Giáo Trưởng Ali al-Sistani.
Lúc 12:15 giờ trưa, Đức Giáo Hoàng nói với mọi người tham dự cuộc gặp gỡ: "Đây là tính tôn giáo đích thực: thờ phượng Thiên Chúa và yêu thương người lân cận của chúng ta".
Với ngôi đền ziggurat tráng lệ gần đó, Đức Phanxicô nói với các nhà lãnh đạo các tôn giáo rằng thật phù hợp khi họ đến với nhau ở Ur, “trở về nguồn gốc của chúng ta, nguồn gốc công việc của Thiên Chúa, sự ra đời của các tôn giáo chúng ta” để cùng nhau cầu nguyện cho hòa bình như là các con cái của Abraham, nhà tiên tri chung của người Hồi giáo, Kitô giáo và Do Thái giáo.
Ngài nói: “Từ nơi này, nơi đức tin được nẩy sinh, từ mảnh đất của tổ phụ Abraham, chúng ta hãy khẳng định rằng Thiên Chúa là Đấng hay thương xót và điều phạm thượng lớn nhất là xúc phạm danh Người bằng cách ghét bỏ anh chị em của chúng ta. Sự thù nghịch, chủ nghĩa cực đoan và bạo lực không phát sinh từ một trái tim tôn giáo: chúng là sự phản bội tôn giáo”.
Ngài nói rằng sẽ không bao giờ có hòa bình chừng nào người Iraq coi những người thuộc các tôn giáo khác là “người khác”.
Ngài nói thêm: "Hòa bình không đòi hỏi người thắng hay người thua, mà đúng hơn là những người anh chị em, những người vì tất cả những hiểu lầm và tổn thương trong quá khứ, đang đi từ xung đột đến hợp nhất".
Theo bản tin ngày 6 tháng 3 của Aljazeera, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gặp Đại Giáo Trưởng Ali al-Sistani tại thành phố thánh địa Najaf để thúc giục người Hồi giáo đón nhận các Kitô hữu bị vây khốn của Iraq.
Đại Giáo Trưởng Ali al-Sistani là một trong những nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Hồi giáo Shia. Đức Giáo Hoàng gặp Đại Giáo Trưởng để đưa ra thông điệp về sự chung sống hòa bình, thúc giục người Hồi giáo đón nhận cộng đồng thiểu số Kitô giáo từ lâu vốn bị vây khốn của Iraq.
Cuộc gặp lịch sử vào thứ Bảy tại ngôi nhà khiêm tốn của al-Sistani đã mất hàng tháng mới tổ chức xong, với mọi chi tiết được thảo luận và thương lượng kỹ lưỡng giữa văn phòng của Đại Giáo Trưởng và Tòa Thánh.
Sau cuộc gặp gỡ, văn phòng al-Sistani đã đưa ra một tuyên bố cho biết các thẩm quyền tôn giáo có vai trò trong việc bảo vệ các Kitô hữu ở Iraq và nhà lãnh đạo Shia “khẳng định mối quan tâm của mình rằng các công dân Kitô giáo nên được sống như tất cả người dân Iraq trong hòa bình và an ninh, và với đầy đủ các quyền lợi hiến định ”.
Tòa thánh Vatican cho biết Đức Phanxicô cảm ơn al-Sistani và người Shia đã “lên tiếng bảo vệ những người yếu nhất và bị bách hại nhiều nhất” trong một số thời điểm bạo lực nhất trong lịch sử gần đây của Iraq.
Ngài cho biết thông điệp hòa bình của al-Sistani khẳng định "tính thánh thiêng của sự sống con người và tầm quan trọng của sự đoàn kết của nhân dân Iraq".
Đoàn xe của vị giáo hoàng 84 tuổi, được dẫn đầu bởi một chiếc xe chống đạn, đã dừng lại cho cuộc gặp gỡ tại địa điểm dọc theo con phố hẹp và có hàng cột Rasool của Najaf, mà đỉnh điểm là Đền Imam Ali có mái vòm bằng vàng, một trong những địa điểm được tôn kính nhất trên thế giới dành cho người Hồi giáo phái Shia. Sau đó, ngài đi bộ vài mét đến ngôi nhà khiêm tốn của al-Sistani, nơi mà nhà lãnh đạo Shia đã thuê trong nhiều thập niên.
Một nhóm người Iraq mặc trang phục truyền thống chào đón ngài ở bên ngoài. Khi Đức Phanxicô đeo mặt nạ bước vào ngưỡng cửa, một vài con chim bồ câu trắng được thả ra như một dấu hiệu hòa bình.
Cuộc họp kín nhằm đề cập đến các vấn đề đang gây khó khăn cho cộng đồng thiểu số Kitô giáo của Iraq. Al-Sistani là một nhân vật được tôn kính sâu sắc ở Iraq có đa số dân theo phái Shia và ý kiến của ngài về các vấn đề tôn giáo và các vấn đề khác được người Hồi giáo phái Shia trên toàn thế giới tìm kiếm.
Đối với khối thiểu số Kitô giáo đang ngày càng ít đi ở Iraq, việc thể hiện tình liên đới của al-Sistani có thể giúp bảo đảm vị trí của họ ở Iraq sau nhiều năm di tản - và họ hy vọng có thể giảm bớt sự đe dọa từ các nhóm vũ trang Shia chống lại cộng đồng của họ.
Chuyến thăm đã được truyền hình trực tiếp trên truyền hình Iraq, và người dân đã hoan nghênh cuộc gặp gỡ của hai nhà lãnh đạo đức tin đáng kính.
Tuyên bố của Ông Matteo Bruni, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh, ngày thứ Bẩy, 6 tháng Ba cho biết như sau:
Sáng nay, tại Najaf, Đức Thánh Cha đã gặp Grand Ayatollah Sayyid Ali al-Husayni al-Sistani. Trong chuyến thăm xã giao kéo dài khoảng 45 phút, Đức Thánh Cha nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hợp tác và tình hữu nghị giữa các cộng đồng tôn giáo trong việc đóng góp cho lợi ích của Iraq, khu vực và toàn thể gia đình nhân loại thông qua việc vun đắp sự tôn trọng và đối thoại lẫn nhau.
Cuộc gặp gỡ này là dịp để Đức Giáo Hoàng cảm ơn Grand Ayatollah al-Sistani đã lên tiếng - cùng với cộng đồng người Shiite – nhằm bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất và bị bách hại giữa bạo lực và những khó khăn lớn trong những năm gần đây, và khẳng định sự thánh thiêng của con người, cuộc sống và tầm quan trọng của sự đoàn kết của nhân dân Iraq.
Khi từ giã Grand Ayatollah, Đức Thánh Cha tuyên bố rằng ngài tiếp tục cầu nguyện xin Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá của tất cả mọi người, ban cho vùng đất thân yêu của Iraq, cho Trung Đông và cho toàn thế giới một tương lai hòa bình và tình huynh đệ.
Grand Ayatollah Sayyid Ali Al-Husayni Al-Sistani là thủ lĩnh của người Shiite ở Iraq, chiếm hơn 60% dân số và là một nhân vật có ảnh hưởng trong cả nước và trong thế giới Hồi giáo Shiite toàn cầu. Ông chủ trương rằng các nhà lãnh đạo tôn giáo không được phép tham gia vào các hoạt động chính trị trực tiếp, vì thế ông được coi là người đối thoại có giá trị đối với các phe phái chính trị và tôn giáo khác nhau trong nước.
Năm 2004, ông ủng hộ bầu cử tự do ở Iraq, góp phần quan trọng vào việc hoạch định chính phủ dân chủ đầu tiên ở nước này. Năm 2014, ông kêu gọi người dân Iraq đoàn kết chống lại bọn khủng bố Hồi Giáo IS. Gần đây hơn, vào tháng 11 năm 2019, khi người dân xuống đường phản đối chi phí sinh hoạt cao và bất ổn chính trị quốc gia, Al-Sistani đã kêu gọi những người biểu tình và cảnh sát bình tĩnh và đừng sử dụng bạo lực.
Trong một cuộc phỏng vấn với Michele Raviert của Vatican News, Shahrazad Houshmand, một nhà thần học người Iran và là thành viên của Ủy ban Phụ nữ của Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa cho biết, Al Sistani có thể được định nghĩa là một “rabbani”, có nghĩa là một “nhà tôn giáo thông thái”, vì “bên cạnh việc nghiên cứu rất sâu và rộng về thần học, về lịch sử của kinh Koran, về truyền thống và luật Hồi giáo, trên hết, ông còn là một nhân vật tinh thần tập hợp và thống nhất người dân Iraq”.
Source:Holy See Press Office
Sau cuộc gặp gỡ với Grand Ayatollah al-Sistani, lúc 10:15, Đức Thánh Cha đã bay đến thành phố Nassiryiaat để chủ toạ một cuộc họp liên tôn tại vùng đồng bằng Ur, quê hương của Tổ Phụ Ápraham vào lúc 11:00.
Cuộc gặp gỡ của Đức Thánh Cha ở đó được coi là đỉnh cao trong nỗ lực của ngài nhằm thúc đẩy đối thoại và hòa hợp giữa các tôn giáo ở các quốc gia Trung Đông.
Trong diễn từ tại đây, Đức Thánh Cha nói:
Nơi diễm phúc này đưa chúng ta trở về nguồn gốc của chúng ta, về nguồn gốc của kỳ công Thiên Chúa, về sự ra đời các tôn giáo của chúng ta. Tại đây, nơi Tổ Phụ Áp-ra-ham sống, chúng ta dường như đã trở về nhà mình. Chính tại đây, Tổ Phụ Áp-ra-ham đã nghe được tiếng gọi của Thiên Chúa; chính từ đây, ngài đã bắt đầu một cuộc hành trình sẽ thay đổi lịch sử. Chúng ta là thành quả của lời mời gọi và cuộc hành trình đó. Thiên Chúa yêu cầu Áp-ra-ham ngước mắt lên trời và đếm các ngôi sao trên bầu trời (x. St 15: 5). Trong những ngôi sao đó, Tổ Phụ đã thấy lời hứa dành cho con cháu mình; ngài đã nhìn thấy chúng ta. Ngày nay, chúng ta, những người Do Thái, Kitô Giáo và Hồi giáo, cùng với anh chị em của chúng ta thuộc các tôn giáo khác, tôn vinh Tổ Phụ Abraham của chúng ta bằng cách làm như ngài đã làm: chúng ta nhìn lên trời và chúng ta hành trình trên trái đất.
1. Chúng ta nhìn lên trời. Hàng ngàn năm sau, khi chúng ta nhìn lên cùng một bầu trời, những ngôi sao đó sẽ xuất hiện. Chúng chiếu sáng những đêm đen tối nhất bởi vì chúng cùng nhau tỏa sáng. Do đó, Thiên đàng truyền đi một thông điệp về sự hiệp nhất: Đấng Toàn năng trên cao mời gọi chúng ta đừng bao giờ tách mình ra khỏi những người lân cận. Sự khác biệt do Thiên Chúa tác thành hướng chúng ta về phía người khác, hướng về anh chị em của chúng ta. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn giữ gìn tình huynh đệ, chúng ta phải dán mắt nhìn về thiên đàng. Mong sao chúng ta - con cháu của Áp-ra-ham và những người đại diện của các tôn giáo khác nhau - ý thức được rằng, trên hết, chúng ta có vai trò này: đó là giúp anh chị em chúng ta ngước mắt và cầu nguyện lên cùng thiên đàng. Tất cả chúng ta đều cần điều này bởi vì chúng ta không tự cung tự cấp được. Con người không toàn năng; chúng ta không thể tự mình làm được. Nếu loại trừ Thiên Chúa, chúng ta sẽ kết thúc nơi việc thờ phượng những thứ trên trái đất này. Của cải thế gian khiến nhiều người không quan tâm đến Thiên Chúa và những người khác, và đó không phải là lý do tại sao chúng ta hành trình trên trái đất. Chúng ta ngước mắt lên trời để nâng mình lên khỏi vực sâu của sự phù phiếm; chúng ta phụng sự Thiên Chúa để thoát khỏi tình trạng nô lệ cho cái tôi của mình, bởi vì Thiên Chúa thúc giục chúng ta yêu thương. Tôn giáo đích thực là thờ phượng Thiên Chúa và yêu thương người lân cận. Trong thế giới ngày nay, vốn thường lãng quên hoặc trình bày những hình ảnh méo mó về Đấng Tối Cao, các tín hữu được kêu gọi làm chứng cho lòng nhân hậu của Ngài, thể hiện tình phụ tử của Ngài qua tình huynh đệ của chúng ta.
Từ nơi này, nơi đức tin được sinh ra, từ mảnh đất của Tổ Phụ Áp-ra-ham, chúng ta hãy khẳng định rằng Thiên Chúa là Đấng nhân từ, và tội phạm thượng ghê gớm nhất là xúc phạm danh Ngài bằng cách ghét bỏ anh chị em của chúng ta. Sự thù địch, chủ nghĩa cực đoan và bạo lực không được phát sinh từ trái tim tôn giáo: chúng là sự phản bội tôn giáo. Các tín hữu chúng ta không thể im lặng khi khủng bố lộng hành tôn giáo; thực sự, chúng ta được mời gọi một cách rõ ràng để xóa tan mọi hiểu lầm. Chúng ta đừng để ánh sáng của thiên đàng bị lu mờ bởi những đám mây hận thù! Những đám mây đen của khủng bố, chiến tranh và bạo lực đã tụ tập trên đất nước này. Tất cả các cộng đồng dân tộc và tôn giáo của đất nước này đã phải chịu đựng. Đặc biệt, tôi muốn đề cập đến cộng đồng Yazidi, là những người đã phải thương tiếc cái chết của nhiều người đàn ông và chứng kiến hàng nghìn phụ nữ, trẻ em gái và trẻ em bị bắt cóc, bán làm nô lệ, bị bạo hành thể xác và cưỡng bức cải đạo. Hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện cho những người đã chịu đựng những đau khổ này, cho những người vẫn đang bị phân tán và bị bắt cóc, để họ sớm được trở về nhà. Và chúng ta hãy cầu nguyện rằng tự do lương tâm và tự do tôn giáo sẽ được mọi nơi công nhận và tôn trọng; đây là những quyền cơ bản, bởi vì chúng khiến chúng ta tự do chiêm ngưỡng thiên đàng mà từ đó chúng ta được tác thành.
Khi khủng bố xâm chiếm miền bắc của đất nước thân yêu này, nó đã tự ý phá hủy một phần di sản tôn giáo tráng lệ của mình, bao gồm các nhà thờ, tu viện và nơi thờ tự của nhiều cộng đồng khác nhau. Tuy nhiên, ngay cả trong thời điểm đen tối đó, một số ngôi sao vẫn tiếp tục tỏa sáng. Tôi nghĩ về những tình nguyện viên Hồi giáo trẻ tuổi của Mosul, những người đã giúp sửa chữa các nhà thờ và tu viện, xây dựng tình bạn huynh đệ trên đống đổ nát của hận thù, và những Kitô hữu và người Hồi giáo ngày nay đang cùng nhau khôi phục lại các đền thờ và nhà thờ. Giáo sư Ali Thajeel cũng nói về sự trở lại của những người hành hương đến thành phố này. Điều quan trọng là phải hành hương đến những nơi linh thiêng, vì đó là dấu hiệu đẹp nhất trên trái đất về sự khao khát thiên đàng của chúng ta. Vì vậy, yêu mến và bảo vệ những nơi thánh là một điều cần thiết hiện sinh, để nhớ đến Tổ Phụ Áp-ra-ham, người ở nhiều nơi khác nhau đã dựng bàn thờ để thờ phượng Chúa (xem Stk 12: 7.8; 13:18; 22: 9). Cầu xin Tổ Phụ vĩ đại giúp chúng ta biến những nơi thiêng liêng của chúng ta thành những ốc đảo bình an và gặp gỡ cho tất cả mọi người! Nhờ lòng trung thành với Thiên Chúa, Áp-ra-ham đã trở thành một ân sủng cho muôn dân (xem Stk 12: 3); Ước gì sự hiện diện của chúng ta ở đây hôm nay, theo bước chân của Tổ Phụ, là một dấu chỉ của phước lành và hy vọng cho Iraq, cho Trung Đông và cho toàn thế giới. Trời đã không mệt mỏi với đất: Thiên Chúa yêu thương mọi người, mọi con gái và con trai của Ngài! Chúng ta đừng bao giờ mệt mỏi khi nhìn lên trời, nhìn lên chính những ngôi sao mà vào thời của ngài, Tổ Phụ Áp-ra-ham của chúng ta đã chiêm ngưỡng.
2. Chúng ta hành trình trên trái đất. Đối với Áp-ra-ham, việc nhìn lên trời, không phải là một sự phân tâm, nhưng là một động lực để hành trình trên trái đất, cất bước trên con đường mà qua con cháu của ngài, sẽ dẫn đến mọi lúc và mọi nơi. Tất cả bắt đầu từ đây, với Chúa, Đấng đã mang Tổ Phụ của chúng ta ra khỏi Ur (x. St 15: 7). Hành trình của Tổ Phụ là một cuộc hành trình ra bên ngoài, một cuộc hành trình liên quan đến sự hy sinh. Áp-ra-ham phải rời bỏ đất đai, nhà cửa và gia đình của mình. Tuy nhiên, bằng cách từ bỏ gia đình riêng của mình, ngài đã trở thành người cha của một gia đình các dân tộc. Một điều gì đó tương tự cũng xảy ra với chúng ta: trong cuộc hành trình của chính mình, chúng ta được kêu gọi bỏ lại những ràng buộc và dính bén, đang giữ chúng ta khép kín trong nhóm của chúng ta, ngăn cản chúng ta đón nhận tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa và không coi người khác là anh chị em của chúng ta. Chúng ta cần phải vượt lên chính mình, bởi vì chúng ta cần nhau. Đại dịch đã khiến chúng ta nhận ra rằng “không ai được cứu một mình” (Fratelli Tutti, 54). Tuy nhiên, cám dỗ rút lui khỏi người khác là một cám dỗ không bao giờ kết thúc, đồng thời chúng ta biết rằng “khái niệm” mỗi người vì chính mình “sẽ nhanh chóng biến chất thành một thứ tự do trong mọi thứ, là điều còn tồi tệ hơn bất kỳ đại dịch nào” ( thd, 36). Giữa những thử thách mà chúng ta đang trải qua, sự cô lập như vậy sẽ không cứu được chúng ta. Cũng không phải chạy đua vũ trang hay xây dựng những bức tường cứu được chúng ta vì những điều đó sẽ chỉ khiến tất cả chúng ta trở nên xa cách và hung hãn hơn. Cũng không phải sự sùng bái ngẫu tượng tiền bạc, vì nó khép chúng ta vào chính mình và tạo ra những hố sâu bất bình đẳng nhấn chìm nhân loại. Chúng ta cũng không thể được cứu bởi chủ nghĩa tiêu dùng, là thứ làm tê liệt tâm trí và làm chai cứng trái tim.
Con đường mà thiên đường vạch ra cho cuộc hành trình của chúng ta là một con đường khác: con đường hòa bình. Nó đòi hỏi, đặc biệt là giữa cơn bão, chúng ta cùng nhau chèo thuyền về cùng một phía. Thật đáng xấu hổ rằng, trong khi tất cả chúng ta đều phải chịu đựng sự khủng hoảng của đại dịch, đặc biệt là ở đây, nơi mà những cuộc xung đột đã gây ra rất nhiều đau khổ, thì lại có những người chỉ biết quan tâm thuần túy đến thiện ích của mình. Sẽ không có hòa bình nếu không có sự chia sẻ và chấp nhận, hay không có một nền công lý bảo đảm sự bình đẳng và tiến bộ cho tất cả mọi người, bắt đầu từ những người dễ bị tổn thương nhất. Sẽ không có hòa bình trừ khi các dân tộc mở rộng bàn tay cho các dân tộc khác. Sẽ không có hòa bình chừng nào chúng ta coi người khác là họ chứ không phải là mình. Sẽ không có hòa bình chừng nào liên minh của chúng ta chống lại những người khác, vì liên minh của một số người chống lại những người khác chỉ làm gia tăng sự chia rẽ. Hòa bình không đòi hỏi phải có người thắng hay người thua, nhưng đòi hỏi những người là anh chị em với nhau, những người vì tất cả những hiểu lầm và tổn thương của quá khứ, đang hành trình từ xung đột đến hiệp nhất. Chúng ta hãy kêu cầu điều này trong lời cầu nguyện cho toàn bộ Trung Đông. Ở đây tôi đặc biệt nghĩ đến đất nước láng giềng bị chiến tranh tàn phá là Syria.
Tổ Phụ Áp-ra-ham, người ngày nay mang chúng ta đến với nhau trong sự hiệp nhất, là một vị tiên tri của Đấng Tối Cao. Một lời tiên tri cổ xưa nói rằng các dân tộc “sẽ đập gươm thành lưỡi cày, giáo thành lưỡi câu” (Is 2: 4). Lời tiên tri này đã không được ứng nghiệm; trái lại, gươm và giáo đã biến thành tên lửa và bom đạn. Vậy từ đâu, cuộc hành trình hòa bình có thể bắt đầu? Thưa: Từ quyết định không có kẻ thù. Bất cứ ai có can đảm nhìn vào các vì sao, bất cứ ai tin vào Chúa, thì không có kẻ thù để chiến đấu. Người đó chỉ có một kẻ thù duy nhất phải đối mặt, một kẻ thù đứng ở cánh cửa trái tim và cố gõ để bước vào. Kẻ thù đó là lòng thù hận. Trong khi một số người cố gắng có kẻ thù hơn là có bạn bè, trong khi nhiều người tìm kiếm lợi nhuận của riêng mình với giá phải trả của người khác, những người nhìn vào các vì sao của lời hứa, những người theo đường lối của Thiên Chúa, không thể chống lại bất cứ ai, nhưng hòa thuận với tất cả mọi người. Họ không thể biện minh cho bất kỳ hình thức áp đặt, áp bức và lạm dụng quyền lực nào; họ không thể theo đuổi một thái độ hiếu chiến.
Các bạn thân mến, tất cả những điều này có khả thi không? Thưa: Tổ Phụ Áp-ra-ham, người có thể hy vọng giữa mọi nỗi tuyệt vọng (xem Rm 4:18), khuyến khích chúng ta. Trong suốt lịch sử, chúng ta thường xuyên theo đuổi những mục tiêu quá trần tục và tự mình hành trình, nhưng với sự giúp đỡ của Chúa, chúng ta có thể thay đổi để nên tốt hơn. Nhân loại ngày nay, đặc biệt là chúng ta, những tín đồ của tất cả các tôn giáo, phải biến các công cụ của hận thù thành công cụ của hòa bình. Chúng ta phải kiên quyết kêu gọi các nhà lãnh đạo của các quốc gia làm cho việc phổ biến vũ khí ngày càng gia tăng hiện nay nhường chỗ cho việc phân phối lương thực cho tất cả mọi người. Chúng ta có trách nhiệm làm tắt tiếng những lời buộc tội lẫn nhau để có thể lắng nghe tiếng kêu của những người bị áp bức và bị ruồng bỏ trong thế giới của chúng ta: có quá nhiều người thiếu lương thực, thuốc men, giáo dục, quyền lợi và phẩm giá! Chúng ta phải làm sáng tỏ những thủ đoạn mờ ám xoay quanh tiền của và đòi hỏi rằng tiền của không phải lúc nào cũng chỉ kết thúc trong sự củng cố những xa hoa không thể kiềm chế được của một số ít người. Việc bảo tồn ngôi nhà chung của chúng ta khỏi những mục đích săn mồi là tùy thuộc vào chúng ta. Chúng ta phải nhắc nhở thế giới rằng cuộc sống của con người có giá trị vì những gì nó là, chứ không phải vì những gì nó có; rằng cuộc sống của những người chưa sinh, người già, người di cư và đàn ông và phụ nữ, bất kể màu da hay quốc tịch của họ, luôn là thánh thiêng và đáng giá như mạng sống của những người khác! Chúng ta phải có can đảm ngước mắt lên và nhìn vào các ngôi sao, những ngôi sao mà Tổ Phụ Áp-ra-ham của chúng ta đã thấy, những ngôi sao của lời hứa.
Cuộc hành trình của Áp-ra-ham là một phước lành của hòa bình. Tuy nhiên, điều đó không hề dễ dàng: ngài phải đối mặt với những vất vả và những sự kiện không lường trước được. Chúng ta cũng có một hành trình khó khăn phía trước, nhưng giống như vị Tổ Phụ vĩ đại, chúng ta cần phải thực hiện những bước cụ thể, đặt ra và tìm kiếm khuôn mặt của người khác, chia sẻ những kỷ niệm, cái nhìn và những khoảng tĩnh lặng, những câu chuyện và trải nghiệm. Tôi đã bị ấn tượng bởi chứng tá của Dawood và Hasan, một người là Kitô hữu và một người là người Hồi giáo, đó là những người không nản lòng về sự khác biệt giữa họ, đã nghiên cứu và làm việc cùng nhau. Họ cùng nhau xây dựng tương lai và nhận ra rằng họ là anh em. Để tiến về phía trước, chúng ta cũng cần đạt được điều gì đó tốt đẹp và cụ thể cùng nhau. Đây là con đường, đặc biệt là đối với những người trẻ tuổi, những người không muốn thấy ước mơ của mình bị cắt đứt bởi những mâu thuẫn trong quá khứ! Cần phải dạy họ tình huynh đệ, dạy họ nhìn vào các vì sao. Đây là một trường hợp khẩn cấp thực sự; nó sẽ là liều thuốc hữu hiệu nhất cho một tương lai hòa bình. Với các bạn, các bạn trẻ thân mến, đây là hiện tại và tương lai của chúng ta!
Chỉ cùng với những người khác, vết thương của quá khứ mới có thể được chữa lành. Rafah kể cho chúng ta nghe về tấm gương anh hùng của Najy, thuộc cộng đồng Sabean Mandean, là người đã mất mạng trong nỗ lực cứu gia đình của người hàng xóm Hồi giáo của anh. Có bao nhiêu người ở đây, giữa sự im lặng và thờ ơ của thế giới, đã dấn thân vào những cuộc hành trình của tình huynh đệ! Rafah cũng kể cho chúng ta nghe về những đau khổ khôn tả của cuộc chiến khiến nhiều người phải từ bỏ quê hương và đất nước để tìm kiếm tương lai cho con cái của họ. Cảm ơn bạn, Rafah, đã chia sẻ với chúng tôi quyết tâm vững chắc của bạn để ở lại đây, trên mảnh đất của cha ông bạn. Cầu mong những người không thể làm được như vậy, và phải chạy trốn, có thể tìm thấy một sự chào đón tử tế, phù hợp với những người dễ bị tổn thương và đau khổ.
Chính nhờ lòng hiếu khách, một nét đặc trưng của những vùng đất này, mà Áp-ra-ham đã được Thiên Chúa đến thăm và ban tặng một đứa con trai, khi dường như mọi hy vọng đã tàn phai (x. St 18: 1-10). Anh chị em thuộc các tôn giáo khác nhau thân mến, ở đây chúng ta thấy mình như ở nhà, và từ đây, chúng ta cùng nhau cam kết thực hiện ước mơ của Thiên Chúa là gia đình nhân loại có thể trở nên hiếu khách và chào đón tất cả con cái của Người; rằng khi nhìn lên cùng một trời, gia đình nhân loại sẽ hành trình trong hòa bình trên cùng một trái đất.
Source:Holy See Press Office
Báo chí quốc tế đánh giá cuộc hội kiến thượng đỉnh giữa Đức Thánh Cha Phanxicô và giáo chủ Sistani là một trong các gặp gỡ quan trọng nhất lịch sử. Người Công Giáo Irak chỉ chiếm 1 % dân số trong một đất nước hồi giáo, thường xuyên là nạn nhân kỳ thị và khủng bố.
Giáo chủ Ali Sistani, lãnh đạo tối cao hồi giáo Chiites tại Irak và trên thế giới, đã hội kiến với ĐTC Phanxicô trong căn nhà nhỏ ở thánh địa Najaf, cách thủ đô Bagdad 200 cây số về phía nam.
Hai vị lãnh đạo tinh thần đã đàm đạo riêng trong một tiếng đồng hồ, đúng hai năm sau ngày ĐTC Phanxicô ký với giáo chủ Al-Azhar, lãnh đạo hệ phái Chiites ở Ai Cập, một văn kiện tán dương tình huynh đệ nhân loại.
Báo chí không được tham dư hội đàm lịch sử này, bắt đầu từ 6 giờ sáng giờ quốc tế GMT. Người Chiite Irak tỏ ra hãnh diện về biến cố lịch sử này, diễn ra trong bối cảnh nội chiến huynh đệ tương tàn giữa người Chiites và Sunnites từ 40 năm nay.
Giáo chủ Ali Sistani lãnh đạo 200 triệu người Chiites trên tổng số 1,8 tỷ người hồi giáo trên thế giới và là đối thủ của Ali Khamenei của Iran. Vị trưởng lão Irak được coi là biểu tượng nền độc lập của Irak, chủ trương thần học Najaf tách rời tôn giáo khỏi chính trị. Theo lời ĐHY Miguel Ayuso, chủ tịch Hội đồng Đối thoại liên tôn của Tòa thánh, thần học Najaf khai triển khía cạnh xã hội, đối lập với thần học Qom chỉ lưu ý đến tôn giáo.
Cuộc tông du của ĐTC Phanxicô diễn ra trên một đất nước mỗi ngày có hơn 5 ngàn trường hợp bị nhiễm Covid-19. Sau Najaf, ĐTC sẽ đến Ur là quê hương của tổ phụ Abraham. Ngài sẽ cầu nguyện cùng với các vị lãnh đạo chiites, sunnites, yazidis et sabéens.
Từ thứ sáu 06/03 đến thứ hai 08/03, ĐTC Phanxicô tiếp tục hành trình dài 1 445 cây số :
- Chủ nhật : Ngài đến tỉnh Ninive ở phía bắc Irak là cái nôi của người Công Giáo Irak. Ngài sẽ viếng thăm Mossoul và Qaraqoch từng bị nhóm Nhà nước hồi giáo tàn phá và sẽ cử hành thánh lễ ngoài trời tại Erbil, thủ phủ Kurdistan của Irak.
Hình ảnh cuộc hội kiến giữa vị giáo chủ áo đen 90 tuổi, râu dài bạc phơ, hậu duệ của Mohamet và ĐTC Phanxicô 84 tuổi, phẩm phục tinh tuyền trắng toát, lãnh đạo 1,254 tỷ người công giao trên thế giới, sẽ đi vào lịch sử. Theo thông báo của văn phòng vị giáo chủ hồi giáo : ‘‘Giáo chủ Ali Sistani và cộng đồng người hồi giáo Chiites tại Irak bày tỏ lòng biết ơn ĐTC Phanxicô đã hội đàm với vị giáo chủ hồi giáo và viếng thăm Najaf’’.
Lê Đình Thông
Lúc 6 giờ chiều ngày thứ Bẩy 6 tháng Ba, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành Phụng vụ Thánh theo nghi lễ Chanđê tại Nhà thờ Thánh Giuse, là nhà thờ chính tòa của Công Giáo nghi lễ Chanđê ở Baghdad.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:
Ở những vùng đất này, sự khôn ngoan đã được tìm kiếm ngay từ xa xưa. Quả thực việc tìm kiếm sự khôn ngoan luôn thu hút nhân loại. Tuy nhiên, thông thường, những người có nhiều phương tiện hơn có thể thu thập được nhiều kiến thức hơn và có nhiều cơ hội hơn, trong khi những người có ít phương tiện hơn bị gạt ra ngoài lề xã hội. Sự bất bình đẳng như vậy - đã gia tăng trong thời đại của chúng ta - là không thể chấp nhận được. Sách Khôn Ngoan làm chúng ta ngạc nhiên khi đảo ngược quan điểm này, và cho chúng ta biết rằng “người phận nhỏ được thương tình miễn thứ, kẻ quyền thế lại bị xét xử thẳng tay”. (Kn 6: 6). Trong mắt thế giới, những người chẳng có bao nhiêu là những kẻ bị loại bỏ, trong khi những người giầu có là những người được ban đặc ân. Đối với Thiên Chúa thì không như vậy: những người quyền lực hơn phải chịu sự xét xử gắt gao, trong khi những người rốt cùng lại là những người được Thiên Chúa chúc phúc.
Chúa Giêsu, là hiện thân của sự Khôn Ngoan, đã đưa sự đảo ngược này đến mức viên mãn trong Tin Mừng, và Người làm như vậy với bài giảng đầu tiên của mình, với các Mối Phúc Thật. Sự đảo ngược là hoàn toàn: những người nghèo, những người than khóc, những người bị bắt bớ đều được gọi là những người có phúc. Sao có thể như thế được? Đối với thế giới, những người giàu có, quyền thế và nổi tiếng mới là những người có phúc! Những người có của cải và phương tiện mới là những người được trọng vọng! Nhưng đối với Thiên Chúa thì trái lại: Những kẻ giàu có không phải là những người cao trọng, mà chính là những người nghèo trong tâm hồn; không phải những người có thể áp đặt ý muốn của mình lên người khác, mà là những người hòa nhã với tất cả mọi người. Không phải những người được đám đông tung hô, mà là những người thể hiện lòng thương xót đối với anh chị em của họ. Đến đây, chúng ta có thể tự hỏi: nếu tôi sống như Chúa Giêsu yêu cầu, tôi được cái gì nào? Chẳng lẽ như thế không phải là mạo hiểm để người khác chiếm đoạt sao? Lời mời gọi của Chúa Giêsu là đáng giá hay là một nguyên nhân gây ra thua thiệt? Thưa: Lời mời đó không phải là vô giá trị, mà là khôn ngoan.
Lời mời gọi của Chúa Giêsu là khôn ngoan bởi vì tình yêu, là trọng tâm của các Mối Phúc, cho dù nó có vẻ yếu đuối trước mắt người đời, trên thực tế tình yêu luôn chiến thắng. Trên thập tự giá, tình yêu tỏ ra mạnh mẽ hơn tội lỗi, trong ngôi mộ, tình yêu đã chiến thắng sự chết. Cũng chính tình yêu đó đã làm cho các vị tử đạo chiến thắng trong thử thách - và có bao nhiêu vị tử đạo trong thế kỷ qua, thậm chí nhiều hơn trong quá khứ! Tình yêu thương là sức mạnh của chúng ta, là nguồn sức mạnh cho những anh chị em của chúng ta, những người ở đây cũng đã phải chịu đựng những thành kiến và phẫn nộ, ngược đãi và bắt bớ vì danh Chúa Giêsu. Tuy nhiên, trong khi quyền lực, vinh quang và sự phù phiếm của thế gian qua đi, tình yêu vẫn còn. Như Tông đồ Phaolô đã nói với chúng ta: “Đức mến không bao giờ mất được” (1 Cô 13: 8). Vì vậy, sống một cuộc sống được định hình bởi các Mối Phúc là làm cho những điều đã qua trở thành vĩnh cửu, là đưa thiên đàng xuống trái đất.
Nhưng chúng ta thực hành các Mối Phúc như thế nào? Các Mối Phúc không yêu cầu chúng ta làm những điều phi thường, những kỳ công vượt quá khả năng của chúng ta. Các Mối Phúc yêu cầu chứng tá hàng ngày. Phúc cho những ai sống hiền lành, biết tỏ lòng thương xót ở bất cứ nơi nào họ đến, phúc cho những người có tấm lòng trong sạch ở bất cứ nơi nào họ sống. Để được chúc phúc, chúng ta không cần thỉnh thoảng trở thành anh hùng, nhưng phải trở thành chứng nhân hết ngày này qua ngày khác. Làm chứng là cách thể hiện sự khôn ngoan của Chúa Giêsu. Đó là cách thế giới được thay đổi: không phải bởi quyền lực và sức mạnh, mà bởi các Mối Phúc. Vì đó là điều Chúa Giêsu đã làm: Ngài đã sống cho đến cùng những gì Ngài đã nói từ đầu. Mọi sự tùy thuộc vào việc làm chứng cho tình yêu của Chúa Giêsu, đó cũng chính là lòng bác ái mà Thánh Phaolô đã diễn tả một cách tuyệt vời trong bài đọc thứ hai hôm nay. Chúng ta hãy chú ý cách thức ngài trình bày điều đó.
Đầu tiên, Thánh Phaolô nói rằng “Đức mến thì nhẫn nhục” (câu 4). Chúng ta thường không mong đợi tính từ này. Tình yêu thương dường như đồng nghĩa với lòng tốt, sự hào phóng và những việc lành phúc đức, tuy nhiên Thánh Phaolô nói rằng đức mến trên hết là sự kiên nhẫn. Kinh thánh nhắc đến đầu tiên và trên hết về sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Trong suốt lịch sử, nhân loại liên tục tỏ ra bất trung thành với giao ước cùng Thiên Chúa, rơi vào cùng những tội lỗi cũ. Tuy nhiên, thay vì ngày càng mệt mỏi và bỏ đi, Chúa luôn trung thành, tha thứ và bắt đầu lại. Sự kiên nhẫn bắt đầu đi bắt đầu lại như thế là phẩm chất đầu tiên của tình yêu, bởi vì tình yêu không phải là cáu kỉnh mà luôn là bắt đầu lại từ đầu. Tình yêu không mòn mỏi và chán nản, mà luôn thúc đẩy phía trước. Đức mến không nản lòng, nhưng vẫn sáng tạo. Đối mặt với cái ác, tình yêu không bỏ cuộc hay đầu hàng. Những người yêu thương không khép mình lại khi mọi việc xảy ra sai trái, nhưng đáp lại điều ác bằng điều thiện, trong khi nghĩ đến sự khôn ngoan khải hoàn của thập tự giá. Những nhân chứng của Thiên Chúa là như thế: không thụ động hay phó mặc cho định mệnh, để mình tùy thuộc vào những diễn biến, những cảm xúc hay những sự kiện tức thời. Thay vào đó, họ không ngừng hy vọng, bởi vì họ được đặt nền tảng trong tình yêu thương “tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (câu 7).
Chúng ta có thể tự hỏi mình: chúng ta nên phản ứng thế nào trước những tình huống không như ý? Đối mặt với nghịch cảnh, luôn có hai cám dỗ. Đầu tiên là bỏ chạy: chúng ta có thể bỏ chạy, quay lưng lại, cố gắng tránh xa tất cả. Thứ hai là phản ứng bằng sự tức giận, bằng cách phô trương vũ lực. Trường hợp của các môn đệ trong vườn Giệtsimani là một ví dụ: trong sự bối rối của họ, nhiều người bỏ chạy còn Thánh Phêrô thì cầm gươm lên. Tuy nhiên, cả bỏ chạy và cầm lấy thanh kiếm đều không đạt được gì. Trái lại, Chúa Giêsu đã thay đổi lịch sử. Bằng cách nào? Thưa: Bằng sức mạnh khiêm tốn của tình yêu, với chứng tá kiên nhẫn của mình. Đây là những gì chúng ta được gọi để thực hiện; và đây là cách Thiên Chúa thực hiện những lời hứa của Ngài.
Những lời hứa. Sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, thể hiện trong các Mối Phúc, mời gọi các chứng tá và đưa ra phần thưởng chứa đựng trong các lời hứa của Thiên Chúa. Ngay sau mỗi Mối Phúc là một lời hứa: ai thực hành chúng thì sẽ được nước Trời, được an ủi, được toại nguyện, được diện kiến thiên nhan Chúa… (x. Mt 5, 3-12). Những lời hứa của Thiên Chúa bảo đảm niềm vui không gì sánh được và không bao giờ thất vọng. Nhưng chúng được thực hiện như thế nào? Thưa: Thông qua những nhược điểm của chúng ta. Thiên Chúa ban phước cho những ai đi trên con đường nghèo khó nội tâm của họ cho đến cùng.
Đây là con đường; không có con đường nào khác. Chúng ta hãy nhìn vào Tổ Phụ Áp-ra-ham. Thiên Chúa đã hứa cho ngài con cháu đông đúc, nhưng ông và bà Sarah hiện đã già và không có con. Tuy nhiên, chính trong tuổi già kiên nhẫn và trung thành của họ, Thiên Chúa đã thực hiện điều kỳ diệu và ban cho họ một đứa con trai. Chúng ta cũng hãy nhìn vào Môisê: Thiên Chúa hứa rằng Ngài sẽ giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, và để làm điều đó, Ngài yêu cầu Môisê đi nói với Pharaôn. Mặc dù Môisê nói rằng ông nói năng không thuyết phục, nhưng chính qua lời nói của ông, Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa của Ngài. Chúng ta hãy nhìn lên Đức Mẹ, người mà theo Lề Luật không thể có con, nhưng đã được mời gọi để trở thành một người mẹ. Và chúng ta hãy nhìn vào Thánh Phêrô: thánh nhân chối Chúa, nhưng thánh nhân là người được Chúa Giêsu mời gọi để củng cố anh em của mình.
Anh chị em thân mến, có lúc chúng ta cảm thấy mình bất lực và vô dụng. Chúng ta đừng bao giờ chao đảo vì điều này, bởi vì Thiên Chúa muốn thực hiện những điều kỳ diệu một cách chính xác thông qua những nhược điểm của chúng ta.
Thiên Chúa thích làm điều đó, và đêm nay, tám lần, Ngài đã nói với chúng ta từ ţūb'ā [phúc thay], để làm cho chúng ta nhận ra rằng, với Ngài, chúng ta thực sự được “chúc phúc”. Tất nhiên, chúng ta trải qua những thử thách, và chúng ta thường xuyên sa ngã, nhưng chúng ta đừng quên rằng, khi có Chúa Giêsu, chúng ta được chúc phúc. Bất cứ điều gì thế gian lấy đi của chúng ta không là gì so với tình yêu dịu dàng và kiên nhẫn mà Chúa thực hiện qua các lời hứa của mình.
Anh chị em thân mến, có lẽ khi nhìn đôi bàn tay có vẻ trống rỗng của mình, có lẽ anh chị em cảm thấy chán nản và không hài lòng với cuộc sống. Nếu vậy, đừng sợ: Các Mối Phúc là dành cho anh chị em. Vì anh chị em là những người đang đau khổ, những người đói khát công lý, những người bị bắt bớ. Chúa hứa với anh chị em rằng tên của anh chị em được ghi khắc trong lòng Ngài, được viết trên trời!
Hôm nay tôi cảm tạ Chúa cùng với anh chị em và cho anh chị em, bởi vì ở đây, nơi mà sự khôn ngoan đã phát sinh trong thời cổ đại, rất nhiều chứng nhân đã xuất hiện trong thời đại của chúng ta, thường bị bỏ qua bởi tin tức, nhưng rất quý giá trong mắt Chúa. Những nhân chứng, bằng cách sống các Mối Phúc, đang giúp Thiên Chúa thực hiện lời hứa hòa bình của Ngài.
Source:Holy See Press Office
Vào ngày thứ hai trong chuyến đi 3 ngày, Đức Phanxicô đã gặp Đại Giáo Trưởng Ali al-Sistani, một thẩm quyền tinh thần của người Hồi Giáo Shia. Ngài cũng đã thăm khu phế tích của cổ thành Ur, vốn được coi là nơi sinh của Abraham.
Tại ‘nơi được chúc phúc’, Đức Phanxicô thúc giục việc tôn trọng nhân tính chung
Trong bối cảnh thân mật và trình diễn, trong những cử chỉ cụ thể và mang tính biểu tượng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô hôm thứ Bảy đã sử dụng bối cảnh của vùng Lưỡng Hà cổ đại như một lời nhắc nhở mạnh mẽ rằng điều gắn bó nhân loại mạnh mẽ hơn điều chia rẽ.
Đức Giáo Hoàng bắt đầu ngày thứ hai ở Iraq trước lúc bình minh, lên chuyến bay đến thánh địa Najaf, nơi ngài có cuộc gặp riêng với Đại Giáo Trưởng Ali al-Sistani, nhà lãnh đạo tinh thần ẩn dật của người Shia ở Iraq.
Trong chuyến thăm lịch sử tới Iraq, Đức Phanxicô đã tìm cách hỗ trợ các Kitô hữu ở quốc gia có đa số người Shia này, kêu gọi các nhà lãnh đạo Iraq bảo vệ tất cả các quyền của người thiểu số và gửi đi một thông điệp muốn nói rằng bản thân ngài đã trở lại sân khấu hoàn cầu sau một năm giam mình đằng sau các bức tường Vatican vì đại dịch.
Từ Najaf, ngài đi đến khu phế tích Ur, một trong những nền văn minh lâu đời nhất thế giới. Truyền thống cho rằng đây là nơi sinh của nhà tiên tri Abraham, người khẳng định niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất. Do Thái giáo, Hồi giáo và Kitô giáo đều có nguồn gốc từ Abraham.
Sau khi tham quan một ziggurat tân Sumer và những phế tích khác ở trung tâm của nơi từng là một thành phố lớn trong vương quốc của Nebuchadnezzar II - bị tàn phá bởi thời gian và chiến tranh, nhưng vẫn gây ấn tượng mạnh và có sức gợi cảm sâu sắc – Đức Giáo Hoàng kêu gọi sự đoàn kết giữa các thành viên của các tín ngưỡng khác nhau.
Được vây quanh bởi các Kitô hữu, người Hồi giáo và thành viên của nhiều dân tộc thiểu số ở Iraq, Đức Phanxicô nói, “Nơi được chúc phúc này đưa chúng ta trở lại nguồn gốc của mình. Chúng ta dường như được trở về nhà".
Ngài kêu gọi hòa bình và tình yêu, và khi làm như vậy, ngài đã hiện thực hóa giấc mơ được nuôi dưỡng bởi Đức Gioan Phaolô II, người đã lên kế hoạch đến thăm Iraq, trước khi căng thẳng buộc ngài phải hủy bỏ hơn 20 năm trước đây.
Đức Phanxicô đã cố gắng tận dụng tối đa thời điểm này, và nói rằng “sự phạm thượng lớn nhất” chính là hành vi “ghét bỏ anh chị em của chúng ta”.
Ngài nói: “Sự thù nghịch, chủ nghĩa cực đoan và bạo lực không phát sinh từ trái tim tôn giáo: Chúng là sự phản bội tôn giáo. Chúng ta, những người tin Thiên Chúa không thể im lặng khi khủng bố lạm dụng tôn giáo."
Vị Giáo Trưởng Đáng kính của phái Shia và Đức Giáo Hoàng thảo luận về bất công và áp bức
Không có video về cuộc gặp gỡ, và không có tiếng hò reo, ca hát của đám đông. Nhưng về nhiều phương diện, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giáo Hoàng Phanxicô và vị giáo trưởng của phái Shia được tôn kính nhất của Iraq tại thánh địa Najaf vào sáng thứ Bảy là một trong những cuộc gặp gỡ xúc động nhất trong chuyến công du Iraq của Đức Giáo Hoàng.
Hai vị trưởng lão – Đại Giáo Trưởng Ali al-Sistani, 90 tuổi và Đức Giáo Hoàng Phanxicô, 84 tuổi, mỗi người đều là người có thẩm quyền tôn giáo cao nhất trong số những người theo họ - ngồi đối diện nhau trên những chiếc ghế gỗ đơn giản trong ngôi nhà khiêm tốn của Đại Giáo Trưởng.
Đức Giáo Hoàng là một tu sĩ Dòng Tên, người xa lánh xa hoa và bênh vực người nghèo, còn Giáo Trưởng al-Sistani là một học giả tôn giáo ẩn dật, người bênh vực những người bị chà đạp.
Một bức ảnh do văn phòng báo chí Vatican công bố cho thấy Đức Giáo Hoàng đang đi bộ dọc một con hẻm gần nhà của Giáo Trưởng, con hẻm vừa đủ rộng cho các thành viên trong đoàn tùy tùng của Đức Giáo Hoàng đi bộ bốn phía. Đường điện tạm bợ lủng lẳng trên các ngôi nhà, một số có cửa sổ được che bằng các thanh kim loại uốn cong.
Najaf là nơi đặt lăng mộ của Imam Ali, được người Hồi giáo dòng Shia coi là người kế vị hợp pháp của Nhà tiên tri Muhammad. Lần đầu tiên trong nhiều năm, ngôi đền đóng cửa đối với người hành hương vì chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng.
Giáo Trưởng al-Sistani hiếm khi ra khỏi nhà và giao tiếp với thế giới bên ngoài qua một phát ngôn viên. Mặc dù ngài là người Iran, nhưng các tuyên bố của ngài về Iraq có sức nặng rất lớn. Ngài đã có thể ra lệnh cho các cuộc bầu cử được diễn tiến và việc ngài rút lại sự ủng hộ đối với thủ tướng tiền nhiệm của Iraq, người mà ngài cảm thấy đã làm thất vọng người dân, khiến thủ tướng không còn lựa chọn nào khác ngoài việc từ chức.
Cuộc gặp giữa hai nhà lãnh đạo tôn giáo kéo dài hơn dự kiến. Một tuyên bố do văn phòng của Giáo Trưởng al-Sistani đưa ra cho biết giáo trưởng đã nhấn mạnh rằng các công dân Kitô giáo xứng đáng được "sống như tất cả người dân Iraq trong an ninh và hòa bình và có đầy đủ các quyền hiến định".
Ngài cũng nói về “sự bất công, áp bức, nghèo đói, đàn áp tôn giáo và trí thức” và nêu quan ngại đối với số phận của những người dân phải di tản trong khu vực, “đặc biệt là người dân Palestine ở các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng”.
Trong tuyên bố về cuộc gặp gỡ, Vatican cho biết Đức Giáo Hoàng đã cảm ơn giáo trưởng “đã lên tiếng - cùng với cộng đồng Shia - để bảo vệ những người dễ bị tổn thương và bị bách hại nhất giữa cảnh bạo lực và những khổ cực to lớn”.
Mặc dù chuyến thăm mang tính biểu tượng cao, nó cũng nhằm báo hiệu cho các nhà lãnh đạo Hồi giáo phái Shia rằng các Kitô hữu phải được tôn trọng.
Cả hai vị giáo sĩ đều không đeo mặt nạ. Trong khi Đức Phanxicô và những người đi cùng ngài đã được tiêm chủng chống vi rút coronavirus, Giáo Trưởng al-Sistani thì không. Theo một thành viên trong văn phòng của ngài, Giáo Trưởng không muốn tước đi liều vắc-xin của người khác và đang đợi những người khác được tiêm chủng trước. Tuy nhiên, văn phòng của ngài nói rõ rằng Giáo Trưởng al-Sistani tin rằng việc tiêm chủng được phép về mặt tôn giáo.
Dưới bóng Ngôi đền ở Ur, Đức Giáo Hoàng tôn vinh các nguồn gốc nối kết nhiều tín ngưỡng
Trong tất cả các cuộc hành trình của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, chưa nơi nào đưa ngài đến gần nơi bắt nguồn của các tôn giáo độc thần như vùng bình nguyên lộng gió ở miền nam Iraq với phế tích của một ngôi đền 4,000 năm tuổi dâng kính một vị thần mặt trăng.
Chính tại Ur, các tín hữu tin rằng Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho Tiên tri Abraham, được biết đến như là cha đẻ các tôn giáo độc thần.
Hôm thứ Bảy, Đức Phanxicô đã nói chuyện, trong tầm nhìn đền ziggurat ở phía sau, một kim tự tháp có bậc trên đỉnh có một ngôi đền - phần còn lại của thủ đô tân Sumer, nơi truyền thống cho rằng Abraham được sinh ra.
Đức Giáo Hoàng nói: “Tại nơi mà tổ phụ Abraham của chúng ta đã sống, chúng ta dường như được trở về nhà”.
Đức Phanxicô nói rằng Thiên Chúa, Đấng từng hứa với Abraham 100 tuổi rằng ông sẽ có nhiều con, đã bảo nhà tiên tri nhìn lên bầu trời và đếm các vì sao.
Vây quanh bởi các nhà lãnh đạo Hồi giáo và Kitô giáo cũng như đại diện của các nhóm thiểu số tôn giáo cổ đại, Đức Phanxicô nói: “Trong những ngôi sao đó, ông nhìn thấy lời hứa về con cháu mình - ông ấy nhìn thấy chúng ta”.
Đức Phanxicô cũng nói về sự bất công và những người bị tước đoạt.
Ngài nói: “Có quá nhiều người thiếu thực phẩm, thuốc men, giáo dục, quyền lợi và phẩm giá”.
Ur cách tỉnh lỵ Nasiriyah 10 dặm; tỉnh lỵ này vốn là trung tâm các cuộc biểu tình chống chính phủ mà vào năm 2019 đã hạ bệ một thủ tướng. Trong khi phong trào biểu tình đã bị dập tắt ở Baghdad, thì ở Nasiriya, nó vẫn tiếp tục khi những người trẻ tuổi đòi hỏi việc làm, nước sạch và điện.
Mặc dù có tầm quan trọng về tôn giáo và khảo cổ học, nhưng rất ít du khách đến Ur.
Năm 1999, nhà lãnh đạo Iraq Saddam Hussein đã ra lệnh xây dựng lại phế tích của ngôi nhà nổi tiếng như là nơi sinh của Abraham bằng gạch và mái vòm hiện đại. Những viên gạch bùn ban đầu của ziggurat - được tráng bitumen - vẫn còn, và một số có dấu vết của chữ viết hình nêm (cuneiform).
Tuy nhiên, các nhà khảo cổ cho biết sự bất nhất đáng kể trong niềm tin cho rằng Abraham xuất thân từ Ur ở Iraq. Người ta cho rằng ông sinh ra cách đây khoảng 4,000 năm, và Kinh thánh nói về ông như người xuất thân từ “Ur của xứ Chaldees” - ám chỉ một dân tộc sống ở Iraq 1,000 năm sau đó.
Chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng nhắc nhớ sự mất dần các khối thiểu số tôn giáo của Iraq
Họ đang biến mất - những nhóm thiểu số tôn giáo cổ đại từng phát triển mạnh mẽ trên những vùng đất màu mỡ từng nuôi dưỡng những nền văn minh được biết đến đầu tiên trên thế giới. Và hôm thứ Bảy, với các đại diện của một số tín ngưỡng đa dạng của Iraq vây quanh, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói về những phế tích của một thành phố 6,000 năm tuổi.
Tại bình nguyên Ur, Ngài đã được sự tham gia của các trưởng lão của ít nhất bốn nhóm thiểu số tôn giáo ở Iraq, kể cả những người đàn ông có râu trắng, khăn choàng tay và áo khoác len quá khổ.
Rafah Alhilali là một trong những người ngỏ lời với Đức Giáo Hoàng.
Bà nói: “Tôi là một người Iraq, thuộc tộc Sabean Mandean, người đã chứng kiến cảnh con cái, anh em, tất cả người thân thuộc của mình chạy trốn”.
Bà Alhilali cho biết bà quyết tâm ở lại và được chôn cất trên mảnh đất của tổ tiên. Sabean Mandean là một dân tộc thiểu số Iraq bản địa mà các nhà dân tộc học nói rằng họ có nguy cơ biến mất như một cộng đồng.
Một số nghi lễ của họ, tập trung xung quanh Sông Tigris và Euphrates, có nguồn gốc từ Lưỡng Hà cổ đại. Hầu hết cộng đồng này - theo phe chủ hòa - đã phải di tản khỏi miền nam Iraq vì bạo lực.
Một trong những người đàn ông trong cuộc tụ họp hôm thứ Bảy là một trưởng lão tôn giáo người Yazidi - một thành viên của tôn giáo thiểu số được Đức Giáo Hoàng đơn cử như là đã phải chịu đau khổ đặc biệt dưới thời Nhà nước duy Hồi giáo. ISIS đã giết và bắt làm nô lệ hàng ngàn người trong số họ vào năm 2014, và họ đã bị bách hại vì niềm tin của họ trong nhiều thế kỷ.
Một trưởng lão Kaka’i mặc trang phục của người Kurd với áo vest màu nâu đặc biệt với vai kéo dài ra như một cái ách. Những người theo tôn giáo thần bí, chủ hòa sống chủ yếu ở đông bắc Iraq và tây Iran. ISIS coi Kaka’i, cùng với Yazidis, là những kẻ bất tín.
Và chính các Kitô hữu, những người trước khi đạo Hồi chiếm đa số ở Iraq, cũng đang dần dần biến mất - đặc biệt ở miền nam Iraq khi tính đa dạng tôn giáo phong phú của đất nước bị xóa mờ.
Tại tỉnh lỵ Nasiriyah, khoảng 10 dặm cách Ur và một trong những thành phố lớn nhất của Iraq, chỉ có hai gia đình Kitô hữu ở lại và không có nhà thờ hoạt động.
Mahir Shakir, một thành viên của một trong những gia đình còn lại, cho biết: “Đây là một lợi ích lớn cho Iraq và Nasiriya. Đức Giáo Hoàng đã đưa ra một thông điệp về hòa bình và tình yêu giữa mọi tôn giáo".
Các chuyến tông du tạo lịch sử của các vị giáo hoàng
Kể từ chuyến hành trình của Thánh Phêrô đến Rôma, theo truyền thống là năm 44 sau Công nguyên, các chuyến đi của các vị giáo hoàng - được gọi là Đại diện của Chúa Kitô - đã đóng một vai trò tạo nên việc định hình cách thế giới nhìn Giáo Hội Công Giáo Rôma.
Chúng cũng phản ánh cách các vị giáo hoàng nhìn vai trò của họ trong thế giới.
Kỷ nguyên hiện đại của các chuyến đi của Đức Giáo Hoàng bắt đầu vào tháng 10 năm 1962, khi Đức Gioan XXIII lên một chuyến tàu tại ga xe lửa nhỏ của Vatican để thăm Nhà Thánh Loreto và Vương cung thánh đường Thánh Phanxicô ở Assisi. Theo các nhà sử học, đây là lần đầu tiên một giáo hoàng rời Rôma kể từ năm 1857, sau khi Đức Piô IX nổi tiếng tuyên bố mình là “tù nhân của Vatican” vào năm 1870 để phản đối việc mất các Lãnh thổ Giáo hoàng.
Vắng bóng trong một biến cố làm nổi bật các dây nối kết Do Thái Giáo, Kitô Giáo và Hồi Giáo: sự hiện diện Do Thái Giáo
Tuần trước, một vài ngày trước khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô lên đường đi Iraq, các phóng viên đã hỏi người phát ngôn của Vatican liệu có bất cứ giáo sĩ Do Thái nào sẽ tham gia vào biến cố trọng tâm của chuyến thăm - cuộc gặp gỡ liên tôn tại Bình nguyên Ur, nơi truyền thống vốn coi là nơi sinh của Abraham, tổ phụ của các tín ngưỡng Do Thái Giáo, Kitô giáo và Hồi giáo, hay không.
Người phát ngôn, Matteo Bruni, nói rằng ông không biết liệu có bất cứ giáo sĩ Do Thái nào tham gia hay không, nhưng ông chắc chắn rằng một số người Do Thái sẽ tham dự.
Tuy nhiên, ở một đất nước nơi dân số Do Thái sôi động một thời đã giảm dần và cuối cùng biến mất sau nhiều năm bách hại và tàn sát, đó không phải là một nhiệm vụ dễ dàng.
Chỉ hơn nửa thế kỷ trước, người Do Thái ở Iraq lên tới hơn 130,000 người. Hiện giờ có lẽ chỉ còn một chục - một con số khó kiểm chứng, vì trong nhiều năm, những người Do Thái ở lại thường cẩn thận không tiết lộ danh tính của mình vì sợ bạo lực.
Theo các viên chức Giáo Hội địa phương, tại biến cố được dàn dựng cẩn thận hôm thứ Bảy ở một nơi được người Do Thái gọi là nhà cả hàng nghìn năm, không có người Do Thái nào tham gia buổi lễ.
Linh mục Alberty Hisham, người điều phối chuyến thăm cho Giáo Hội Công Giáo Iraq, là định chế lo tổ chức biến cố, cho biết các nhà lập kế hoạch đã liên hệ với mọi người Do Thái ở Iraq mà họ có thể nhận diện được.
Ngài cho biết, “Chúng tôi đã mời họ, nhưng họ quá ít - có thể là 10 hoặc 12 người”.
Sự vắng mặt càng trở nên nổi bật hơn vì khung cảnh: một vùng đất rải rác có những địa điểm được nhắc đến trong Kinh thánh tiếng Do Thái từng là địa điểm hành hương phổ biến của người Do Thái.
Ở thị trấn Alqosh, có một ngôi mộ được cho là của Nahum, một nhà tiên tri trong Kinh thánh được cho là đã sống ở khu vực này cách đây gần ba thiên niên kỷ.
Ngôi mộ, tại một thời điểm nào đó đã được chuyển đổi thành một hội đường, có ghi dấu bằng tiếng Do Thái với nội dung “Đây sẽ là nơi ở của bạn mãi mãi”.
Đợt thuyên chuyển lần này từ khởi đầu Mùa Chay và kết thúc khi khởi đầu tháng kính Thánh Giuse. Đọc Tin Mừng, suy niệm về hành trình cuộc đời Thánh Giuse người công chính qua những chuyến đi để soi rọi những lần chuyển xứ của anh em linh mục.
Xem Hình
Những Bước Chân Của Thánh Giuse
Hành trình cuộc đời của Thánh Giuse luôn gắn liền với Chúa Giêsu và Đức Maria, nên những bước chân của Thánh Giuse là những bước đi theo Chúa và Đức Mẹ, để bảo vệ, phục vụ Thánh gia là gia đình của Thiên Chúa, gia đình có Ngôi Lời Thiên Chúa hiện diện và hoạt động.
Có 6 chuyến đi trong cuộc đời Thánh Giuse.
Thánh Giuse định tâm bỏ Đức Mẹ bằng kín đáo “ra đi ” (Mt 1,19), không một lời giã biệt, cũng chẳng cần được giải thích, phân trần, khi Đức Mẹ có thai “trước khi hai ông bà về chung sống” (Mt 1,18). Nhưng toan tính “ra đi” lần thứ nhất này đã không thành, vì sứ thần Chúa đã hướng dẫn bước chân Thánh Giuse “trở về nhà”, khi hiện đến báo mộng: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria, vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20).
Những bước đi từ Nadarét đến Bêlem, rồi từ Bêlem ra chuồng chiên cừu đã không nằm trong chương trình, và dự tính của Thánh Giuse, bởi Ngài đã chu đáo chuẩn bị mái ấm Nadarét cho Đức Mẹ sinh Con Trẻ có tên là Emmanuen, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, mà sứ thần Chúa đã báo trước cho Ngài (x. Mt 1,23), nên đôi chân các Ngài đã không còn được bước đi trên hành trình của con người, nhưng trên đường của Thiên Chúa khi Thiên Chúa thay đổi và hướng dẫn những bước chân ấy đến những nơi hoàn toàn xa lạ theo như ý muốn mầu nhiệm của Ngài.
Chuyến thứ ba là cuộc ra đi bi hùng, nguy hiểm hơn cả, vì là cuộc chạy trốn để bảo toàn tính mạng của Hài Nhi Giêsu khi vua Hêrôđê phát lệnh truy lùng và tàn sát “vua dân Do Thái mới sinh ra” (x. Mt 2,2). Vừa được sứ thần báo mộng, Thánh Giuse “liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập” (Mt 2,14). Và lần này cũng như những lần trước, vẫn là những bước chân vội vã, bất ngờ, không hề được chuẩn bị, dự liệu.
Chuyến thứ tư là bước chân hồi hương sau những ngày tị nạn trên “đất khách quê người”. Lần này cũng thật bất ngờ, và cũng chỉ được sứ thần báo mộng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi” (Mt 2,20).
Chuyến thứ năm là hành trình lên Giêrusalem dâng Hài Nhi Giêsu cho Thiên Chúa theo như Luật định. Lần đi này được xem như không có gì trắc trở, vì mọi sự được nằm trong kế họach, nếu không có lời tiên tri sắc như dao làm nát gan, đứt ruột Thánh Giuse của cụ già Simêon về Con Trẻ Giêsu và mẹ Người: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2,34-35).
Chuyến thứ sáu là những bước chân “tìm con” nặng trĩu lo buồn: buồn vì để lạc mất con, lo vì không biết con mình ở đâu, đói khát thế nào… Mặc cảm thiếu trách nhiệm khi cả hai “ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm” (Lc 2,44-45) càng thiêu đốt, xé nát tâm can hai ông bà.
Đi theo Thánh Giuse trên những bước chân của Ngài, chúng ta thấy cuộc đời Ngài gắn liền với những lần ra đi, trở về, như những lần “ra đi, trở về” theo tiếng gọi của Giavê Thiên Chúa đã làm nên hành trình đức tin của những Ápraham, Isaác, Giacóp, Môsê, các ngôn sứ trong Cựu Ước … và của các tông đồ, môn đệ Đức Giêsu trong Tân Ước.(Từ tuyển tập “Trái Tim Người Công Chính” cuốn sách của Năm Đặc Biệt Kính Thánh Giuse. Tác giả: Jorathe Nắng Tím).
Bước đi như người công chính
Người công chính là người luôn sẵn sàng đáp trả đúng lúc, đúng nơi lời mời gọi của Thiên Chúa, như Thánh Giuse trên suốt hành trình dương thế nhiều thách đố, gian truân, nhiều trái ý, nghịch lòng, nhiều nhọc nhằn, vất vả, nhiều thử thách, nguy hiểm, và trong mọi tình huống, Ngài đã luôn đặt mình sẵn sàng trước Thánh Ý và tuyệt đối vâng phục Lời Thiên Chúa dạy. Nhờ tinh thần sẵn sàng của người công chính nơi Ngài mà mọi chương trình của Thiên Chúa có trên Ngài đã được thể hiện “đúng nơi, đúng lúc” như ý muốn thánh thiện của Thiên Chúa.
Tin Mừng cho chúng ta biết: là người khôn ngoan, có trách nhiệm, Thánh Giuse luôn suy nghĩ, tính toán thế nào để Đức Mẹ và Chúa Giêsu được bảo vệ an toàn, được chăm sóc chu đáo, được nuôi nấng đầy đủ, được hạnh phúc, yên ấm.
Song Tin Mừng cũng cho chúng ta thấy: hầu hết những kế hoạch, chương trình được Thánh Giuse cẩn thận chuẩn bị, sắp xếp kỹ lưỡng đều đã không được thực hiện như ý Ngài muốn, nhưng bất ngờ bị đảo lộn, hủy bỏ ở giờ chót, thay vào là những bước đi mới, những hành trình đến những địa chỉ hoàn toàn xa lạ, những tình huống, biến cố, công việc không hề được nghĩ trước, nhưng tất cả được thực hiện một cách khác: khác với ý của con người, khác để theo Thánh Ý Thiên Chúa, khác để phù hợp với Lời Hứa của Thiên Chúa, khác để mọi việc xảy ra “đúng nơi, đúng lúc” như kế hoạch mầu nhiệm đã có từ đời đời của Thiên Chúa.
Và Thánh Giuse đã đón nhận tất cả những “cái khác” được Thiên Chúa truyền dạy và hướng dẫn thực hiện với tâm tình và thái độ của người công chính, đó là sẵn sàng vâng phục và làm theo Thánh Ý. (Từ tuyển tập “Trái Tim Người Công Chính” cuốn sách của Năm Đặc Biệt Kính Thánh Giuse. Tác giả:Jorathe Nắng Tím).
Linh mục giáo phận là người được sai đi
“Linh mục giáo phận là người được sai đi như các tông đồ được Chúa sai đi. Linh mục giáo phận được sai đến với những cộng đoàn dân Chúa để phục vụ dân Chúa”.
Từ nhu cầu mục vụ, việc bổ nhiệm và thuyên chuyển các cha trong giáo phận trở thành sinh hoạt thường niên không chỉ đối với linh mục đoàn mà cả với cộng đoàn dân Chúa trong toàn giáo phận. Các cha rời giáo xứ thân yêu, đến nhiệm sở mới.
Chuyển xứ không chỉ là chuyện chuyển đổi nơi ở nơi phục vụ, mà còn là dịp người linh mục thể hiện đức vâng lời triệt để, thể hiện tinh thần hiệp thông phục vụ và từ bỏ khi nhận được thư bổ nhiệm của Đức Giám Mục.
Lẽ thường tình, sau bao năm phục vụ cộng đoàn, đến lúc ra đi, nhiều cung bậc cảm xúc bịn rịn lưu luyến. Nếu xét theo tình cảm tự nhiên thì đó phải là nỗi đau cào cứa trong lòng. Nhưng đối với đời linh mục, đó là chuyện bình thường. Bởi vì linh mục là người chọn Chúa chứ không chọn công việc của Chúa. Mới hôm qua, chính nơi đây là nhà của mình, thì hôm nay không còn là nhà của mình nữa. Mới hôm qua còn lo lắng xây dựng và gìn giữ, thì hôm nay để lại tất cả và ra đi.Thế mới thấy linh mục là người từ bỏ vì Chúa.
“Nghi thức nhận xứ nói lên nhiệm vụ của Cha Chánh xứ là người được Đức Giám Mục sai đến để coi sóc một giáo xứ, có nhiệm vụ dẫn dắt đàn chiên, và chịu trách nhiệm về giáo xứ của mình. Ngài ân cần phục vụ với sự hiệp lực của giáo dân, để thông phần với Đức Giám Mục vào 3 chức vụ: Tiên Tri,Tư Tế và Vương Đế của Đức Kitô”. Như thế, linh mục Chánh xứ là thừa tác viên chính thức của Giáo Hội, là người được sai đến để phục vụ sự hiệp thông, là chứng tá Tông truyền và là người hành động nhân danh Đức Kitô, Đầu của Giáo Hội. Linh mục Chánh xứ là dấu chỉ, là hiện thân của Đức Kitô, ngài là đầu, chủ tọa cộng đoàn được trao phó.Nghi thức nhận xứ khởi đầu cho sứ vụ của Linh mục nơi nhiệm sở mới và cũng là khởi đầu mới trong lịch sử của cộng đoàn Giáo xứ.
“Mùa thuyên chuyển” đã kết thúc trong tháng kính Thánh Giuse của năm đặc biệt kính Thánh Giuse. Nhìn trong ánh sáng Tin Mừng qua 6 chuyến đi của Thánh Cả để nhận ra rằng, suốt cuộc đời Thánh Giuse đã thi hành với tâm tình và thái độ của người công chính, đó là sẵn sàng vâng phục và làm theo Thánh Ý Thiên Chúa.
Cầu chúc tất cả các linh mục được Đức Giám Mục bổ nhiệm đến giáo xứ mới trong dịp này, bước đi bằng đôi chân của người công chính và người tôi tớ trung thành, được tràn đầy niềm tín thác như Thánh Giuse, nhiều niềm vui Tin Mừng tại môi trường mới. dân Chúa rất khao khát nơi các ngài hình ảnh Đức Kitô Mục Tử nhân hậu, quảng đại và giàu lòng thương xót. dân Chúa mong muốn các ngài là khuôn mẫu cho lòng đạo đức và bác ái.
Đến giáo xứ mới, đây không chỉ là việc chuyển đổi nơi ở, chuyển đổi nơi làm việc, mà còn là việc lãnh nhận và thực thi sứ vụ Chúa trao ban cho người linh mục. Mong rằng sự chuyển đổi không dừng lại ở sự thay đổi không gian, mà là việc chuyển đổi mang tính biểu tượng cho sự thay đổi tâm linh, đổi mới suy nghĩ, đổi mới cung cách mục vụ. Được thế thì quả thật các ngài đã tạo phúc cho cộng đoàn dân Chúa nơi xứ mới.
Các linh mục chuyển xứ là được Chúa sai đi trong tư cách nhân danh Chúa, trong quyền năng của Chúa, là hiện thân của Chúa để mang tình yêu Chúa cho đoàn chiên trong viễn tượng ơn cứu chuộc: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”(Mt 28,19).
Ước mong, niềm vui, sự hiệp nhất của ngày nhận nhiệm sở mới sẽ được nối dài mãi nơi cộng đoàn các Giáo xứ.
Thánh Tâm 6.3
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tỏa ơn lành mưa nắng chứa chan
Nở trong huy hiệu giáo hoàng (1)
Giuse nâng đỡ canh tân giáo triều.
Cả trời đất thương yêu Thánh Cả
Đổ mồ hôi vất vả lo toan
Cơm ăn áo mặc vẹn toàn
Ngôi Hai dưỡng tử lo toan cứu đời.
Theo Patris Corde công bố :
Trái tim Ngài gắn bó tình cha (2)
Một lòng yêu mến thiết tha (3)
Dịu dàng chỉ bảo, nết na vâng lời.
Trong cuộc sống rạng ngời vâng phục
Thánh Giuse công đức đất trời
Với lòng can đảm tuyệt vời
Tinh thần sáng tạo, một đời cần chuyên.
Ngài khép nép thường xuyên bóng tối
Xin xóa tan tội lỗi cô vi (4)
Trong cơn đại dịch cấp kỳ
Khắp nơi nguy khốn, suy vi ngập tràn.
Tông thư trích nguồn ân sách thánh :
Trái tim Ngài : sức mạnh dẫn đưa
Tình Cha suối mát gió mưa
Thế gian xua đuổi dịch mùa gớm ghê.
Lạy Thánh Cả Giuse : Huệ trắng
Là thánh nhân bổn mạng nước Nam
Xin Ngài ban phước ngập tràn
Cánh đồng truyền giáo lúa vàng cò bay.
Nơi Giáo Xứ ngất ngây cành huệ
Ngài ban cho thiên tuế rạng ngời
Ngày càng rộng mở nước trời
Cộng đoàn hiệp nhất, khắp nơi một lòng.
---
(1) Giáo hiệu của Đức Thánh Cha Phanxicô
công bố ngày 19/03/2013 có hình bông huệ.
(2) Tông thư Patris Corde (Trái Tim Người Cha)
công bố Năm Đặc biệt về Thánh Giuse 2021.
(3) Các chữ in đậm trích trong Tông Thư.
(4) Covid 19.
Sáng thứ Bảy, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khởi hành từ Baghdad lúc 7:45 sáng để bay đi thành phố Najaf trong chuyến thăm xã giao Đại Giáo Trưởng Ali al-Sistani, là một trong những nhà lãnh đạo tinh thần hàng đầu của người Hồi Giáo Shiite Iraq.
Tuyên bố của Ông Matteo Bruni, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh, ngày thứ Bẩy, 6 tháng Ba cho biết như sau:
Sáng nay, tại Najaf, Đức Thánh Cha đã gặp Grand Ayatollah Sayyid Ali al-Husayni al-Sistani. Trong chuyến thăm xã giao kéo dài khoảng 45 phút, Đức Thánh Cha nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hợp tác và tình hữu nghị giữa các cộng đồng tôn giáo trong việc đóng góp cho lợi ích của Iraq, khu vực và toàn thể gia đình nhân loại thông qua việc vun đắp sự tôn trọng và đối thoại lẫn nhau.
Cuộc gặp gỡ này là dịp để Đức Giáo Hoàng cảm ơn Grand Ayatollah al-Sistani đã lên tiếng - cùng với cộng đồng người Shiite – nhằm bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất và bị bách hại giữa bạo lực và những khó khăn lớn trong những năm gần đây, và khẳng định sự thánh thiêng của con người, cuộc sống và tầm quan trọng của sự đoàn kết của nhân dân Iraq.
Khi từ giã Grand Ayatollah, Đức Thánh Cha tuyên bố rằng ngài tiếp tục cầu nguyện xin Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá của tất cả mọi người, ban cho vùng đất thân yêu của Iraq, cho Trung Đông và cho toàn thế giới một tương lai hòa bình và tình huynh đệ.
Grand Ayatollah Sayyid Ali Al-Husayni Al-Sistani là thủ lĩnh của người Shiite ở Iraq, chiếm hơn 60% dân số và là một nhân vật có ảnh hưởng trong cả nước và trong thế giới Hồi giáo Shiite toàn cầu. Ông chủ trương rằng các nhà lãnh đạo tôn giáo không được phép tham gia vào các hoạt động chính trị trực tiếp, vì thế ông được coi là người đối thoại có giá trị đối với các phe phái chính trị và tôn giáo khác nhau trong nước.
Năm 2004, ông ủng hộ bầu cử tự do ở Iraq, góp phần quan trọng vào việc hoạch định chính phủ dân chủ đầu tiên ở nước này. Năm 2014, ông kêu gọi người dân Iraq đoàn kết chống lại bọn khủng bố Hồi Giáo IS. Gần đây hơn, vào tháng 11 năm 2019, khi người dân xuống đường phản đối chi phí sinh hoạt cao và bất ổn chính trị quốc gia, Al-Sistani đã kêu gọi những người biểu tình và cảnh sát bình tĩnh và đừng sử dụng bạo lực.
Trong một cuộc phỏng vấn với Michele Raviert của Vatican News, Shahrazad Houshmand, một nhà thần học người Iran và là thành viên của Ủy ban Phụ nữ của Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa cho biết, Al Sistani có thể được định nghĩa là một “rabbani”, có nghĩa là một “nhà tôn giáo thông thái”, vì “bên cạnh việc nghiên cứu rất sâu và rộng về thần học, về lịch sử của kinh Koran, về truyền thống và luật Hồi giáo, trên hết, ông còn là một nhân vật tinh thần tập hợp và thống nhất người dân Iraq”
Sau cuộc gặp gỡ với Grand Ayatollah al-Sistani, lúc 10:15, Đức Thánh Cha đã bay đến thành phố Nassiryiaat để chủ toạ một cuộc họp liên tôn tại vùng đồng bằng Ur, quê hương của Tổ Phụ Ápraham vào lúc 11:00.
Cuộc gặp gỡ của Đức Thánh Cha ở đó được coi là đỉnh cao trong nỗ lực của ngài nhằm thúc đẩy đối thoại và hòa hợp giữa các tôn giáo ở các quốc gia Trung Đông.
Trong diễn từ tại đây, Đức Thánh Cha nói:
Nơi diễm phúc này đưa chúng ta trở về nguồn gốc của chúng ta, về nguồn gốc của kỳ công Thiên Chúa, về sự ra đời các tôn giáo của chúng ta. Tại đây, nơi Tổ Phụ Áp-ra-ham sống, chúng ta dường như đã trở về nhà mình. Chính tại đây, Tổ Phụ Áp-ra-ham đã nghe được tiếng gọi của Thiên Chúa; chính từ đây, ngài đã bắt đầu một cuộc hành trình sẽ thay đổi lịch sử. Chúng ta là thành quả của lời mời gọi và cuộc hành trình đó. Thiên Chúa yêu cầu Áp-ra-ham ngước mắt lên trời và đếm các ngôi sao trên bầu trời (x. St 15: 5). Trong những ngôi sao đó, Tổ Phụ đã thấy lời hứa dành cho con cháu mình; ngài đã nhìn thấy chúng ta. Ngày nay, chúng ta, những người Do Thái, Kitô Giáo và Hồi giáo, cùng với anh chị em của chúng ta thuộc các tôn giáo khác, tôn vinh Tổ Phụ Abraham của chúng ta bằng cách làm như ngài đã làm: chúng ta nhìn lên trời và chúng ta hành trình trên trái đất.
1. Chúng ta nhìn lên trời. Hàng ngàn năm sau, khi chúng ta nhìn lên cùng một bầu trời, những ngôi sao đó sẽ xuất hiện. Chúng chiếu sáng những đêm đen tối nhất bởi vì chúng cùng nhau tỏa sáng. Do đó, Thiên đàng truyền đi một thông điệp về sự hiệp nhất: Đấng Toàn năng trên cao mời gọi chúng ta đừng bao giờ tách mình ra khỏi những người lân cận. Sự khác biệt do Thiên Chúa tác thành hướng chúng ta về phía người khác, hướng về anh chị em của chúng ta. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn giữ gìn tình huynh đệ, chúng ta phải dán mắt nhìn về thiên đàng. Mong sao chúng ta - con cháu của Áp-ra-ham và những người đại diện của các tôn giáo khác nhau - ý thức được rằng, trên hết, chúng ta có vai trò này: đó là giúp anh chị em chúng ta ngước mắt và cầu nguyện lên cùng thiên đàng. Tất cả chúng ta đều cần điều này bởi vì chúng ta không tự cung tự cấp được. Con người không toàn năng; chúng ta không thể tự mình làm được. Nếu loại trừ Thiên Chúa, chúng ta sẽ kết thúc nơi việc thờ phượng những thứ trên trái đất này. Của cải thế gian khiến nhiều người không quan tâm đến Thiên Chúa và những người khác, và đó không phải là lý do tại sao chúng ta hành trình trên trái đất. Chúng ta ngước mắt lên trời để nâng mình lên khỏi vực sâu của sự phù phiếm; chúng ta phụng sự Thiên Chúa để thoát khỏi tình trạng nô lệ cho cái tôi của mình, bởi vì Thiên Chúa thúc giục chúng ta yêu thương. Tôn giáo đích thực là thờ phượng Thiên Chúa và yêu thương người lân cận. Trong thế giới ngày nay, vốn thường lãng quên hoặc trình bày những hình ảnh méo mó về Đấng Tối Cao, các tín hữu được kêu gọi làm chứng cho lòng nhân hậu của Ngài, thể hiện tình phụ tử của Ngài qua tình huynh đệ của chúng ta.
Từ nơi này, nơi đức tin được sinh ra, từ mảnh đất của Tổ Phụ Áp-ra-ham, chúng ta hãy khẳng định rằng Thiên Chúa là Đấng nhân từ, và tội phạm thượng ghê gớm nhất là xúc phạm danh Ngài bằng cách ghét bỏ anh chị em của chúng ta. Sự thù địch, chủ nghĩa cực đoan và bạo lực không được phát sinh từ trái tim tôn giáo: chúng là sự phản bội tôn giáo. Các tín hữu chúng ta không thể im lặng khi khủng bố lộng hành tôn giáo; thực sự, chúng ta được mời gọi một cách rõ ràng để xóa tan mọi hiểu lầm. Chúng ta đừng để ánh sáng của thiên đàng bị lu mờ bởi những đám mây hận thù! Những đám mây đen của khủng bố, chiến tranh và bạo lực đã tụ tập trên đất nước này. Tất cả các cộng đồng dân tộc và tôn giáo của đất nước này đã phải chịu đựng. Đặc biệt, tôi muốn đề cập đến cộng đồng Yazidi, là những người đã phải thương tiếc cái chết của nhiều người đàn ông và chứng kiến hàng nghìn phụ nữ, trẻ em gái và trẻ em bị bắt cóc, bán làm nô lệ, bị bạo hành thể xác và cưỡng bức cải đạo. Hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện cho những người đã chịu đựng những đau khổ này, cho những người vẫn đang bị phân tán và bị bắt cóc, để họ sớm được trở về nhà. Và chúng ta hãy cầu nguyện rằng tự do lương tâm và tự do tôn giáo sẽ được mọi nơi công nhận và tôn trọng; đây là những quyền cơ bản, bởi vì chúng khiến chúng ta tự do chiêm ngưỡng thiên đàng mà từ đó chúng ta được tác thành.
Khi khủng bố xâm chiếm miền bắc của đất nước thân yêu này, nó đã tự ý phá hủy một phần di sản tôn giáo tráng lệ của mình, bao gồm các nhà thờ, tu viện và nơi thờ tự của nhiều cộng đồng khác nhau. Tuy nhiên, ngay cả trong thời điểm đen tối đó, một số ngôi sao vẫn tiếp tục tỏa sáng. Tôi nghĩ về những tình nguyện viên Hồi giáo trẻ tuổi của Mosul, những người đã giúp sửa chữa các nhà thờ và tu viện, xây dựng tình bạn huynh đệ trên đống đổ nát của hận thù, và những Kitô hữu và người Hồi giáo ngày nay đang cùng nhau khôi phục lại các đền thờ và nhà thờ. Giáo sư Ali Thajeel cũng nói về sự trở lại của những người hành hương đến thành phố này. Điều quan trọng là phải hành hương đến những nơi linh thiêng, vì đó là dấu hiệu đẹp nhất trên trái đất về sự khao khát thiên đàng của chúng ta. Vì vậy, yêu mến và bảo vệ những nơi thánh là một điều cần thiết hiện sinh, để nhớ đến Tổ Phụ Áp-ra-ham, người ở nhiều nơi khác nhau đã dựng bàn thờ để thờ phượng Chúa (xem Stk 12: 7.8; 13:18; 22: 9). Cầu xin Tổ Phụ vĩ đại giúp chúng ta biến những nơi thiêng liêng của chúng ta thành những ốc đảo bình an và gặp gỡ cho tất cả mọi người! Nhờ lòng trung thành với Thiên Chúa, Áp-ra-ham đã trở thành một ân sủng cho muôn dân (xem Stk 12: 3); Ước gì sự hiện diện của chúng ta ở đây hôm nay, theo bước chân của Tổ Phụ, là một dấu chỉ của phước lành và hy vọng cho Iraq, cho Trung Đông và cho toàn thế giới. Trời đã không mệt mỏi với đất: Thiên Chúa yêu thương mọi người, mọi con gái và con trai của Ngài! Chúng ta đừng bao giờ mệt mỏi khi nhìn lên trời, nhìn lên chính những ngôi sao mà vào thời của ngài, Tổ Phụ Áp-ra-ham của chúng ta đã chiêm ngưỡng.
2. Chúng ta hành trình trên trái đất. Đối với Áp-ra-ham, việc nhìn lên trời, không phải là một sự phân tâm, nhưng là một động lực để hành trình trên trái đất, cất bước trên con đường mà qua con cháu của ngài, sẽ dẫn đến mọi lúc và mọi nơi. Tất cả bắt đầu từ đây, với Chúa, Đấng đã mang Tổ Phụ của chúng ta ra khỏi Ur (x. St 15: 7). Hành trình của Tổ Phụ là một cuộc hành trình ra bên ngoài, một cuộc hành trình liên quan đến sự hy sinh. Áp-ra-ham phải rời bỏ đất đai, nhà cửa và gia đình của mình. Tuy nhiên, bằng cách từ bỏ gia đình riêng của mình, ngài đã trở thành người cha của một gia đình các dân tộc. Một điều gì đó tương tự cũng xảy ra với chúng ta: trong cuộc hành trình của chính mình, chúng ta được kêu gọi bỏ lại những ràng buộc và dính bén, đang giữ chúng ta khép kín trong nhóm của chúng ta, ngăn cản chúng ta đón nhận tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa và không coi người khác là anh chị em của chúng ta. Chúng ta cần phải vượt lên chính mình, bởi vì chúng ta cần nhau. Đại dịch đã khiến chúng ta nhận ra rằng “không ai được cứu một mình” (Fratelli Tutti, 54). Tuy nhiên, cám dỗ rút lui khỏi người khác là một cám dỗ không bao giờ kết thúc, đồng thời chúng ta biết rằng “khái niệm” mỗi người vì chính mình “sẽ nhanh chóng biến chất thành một thứ tự do trong mọi thứ, là điều còn tồi tệ hơn bất kỳ đại dịch nào” ( thd, 36). Giữa những thử thách mà chúng ta đang trải qua, sự cô lập như vậy sẽ không cứu được chúng ta. Cũng không phải chạy đua vũ trang hay xây dựng những bức tường cứu được chúng ta vì những điều đó sẽ chỉ khiến tất cả chúng ta trở nên xa cách và hung hãn hơn. Cũng không phải sự sùng bái ngẫu tượng tiền bạc, vì nó khép chúng ta vào chính mình và tạo ra những hố sâu bất bình đẳng nhấn chìm nhân loại. Chúng ta cũng không thể được cứu bởi chủ nghĩa tiêu dùng, là thứ làm tê liệt tâm trí và làm chai cứng trái tim.
Con đường mà thiên đường vạch ra cho cuộc hành trình của chúng ta là một con đường khác: con đường hòa bình. Nó đòi hỏi, đặc biệt là giữa cơn bão, chúng ta cùng nhau chèo thuyền về cùng một phía. Thật đáng xấu hổ rằng, trong khi tất cả chúng ta đều phải chịu đựng sự khủng hoảng của đại dịch, đặc biệt là ở đây, nơi mà những cuộc xung đột đã gây ra rất nhiều đau khổ, thì lại có những người chỉ biết quan tâm thuần túy đến thiện ích của mình. Sẽ không có hòa bình nếu không có sự chia sẻ và chấp nhận, hay không có một nền công lý bảo đảm sự bình đẳng và tiến bộ cho tất cả mọi người, bắt đầu từ những người dễ bị tổn thương nhất. Sẽ không có hòa bình trừ khi các dân tộc mở rộng bàn tay cho các dân tộc khác. Sẽ không có hòa bình chừng nào chúng ta coi người khác là họ chứ không phải là mình. Sẽ không có hòa bình chừng nào liên minh của chúng ta chống lại những người khác, vì liên minh của một số người chống lại những người khác chỉ làm gia tăng sự chia rẽ. Hòa bình không đòi hỏi phải có người thắng hay người thua, nhưng đòi hỏi những người là anh chị em với nhau, những người vì tất cả những hiểu lầm và tổn thương của quá khứ, đang hành trình từ xung đột đến hiệp nhất. Chúng ta hãy kêu cầu điều này trong lời cầu nguyện cho toàn bộ Trung Đông. Ở đây tôi đặc biệt nghĩ đến đất nước láng giềng bị chiến tranh tàn phá là Syria.
Tổ Phụ Áp-ra-ham, người ngày nay mang chúng ta đến với nhau trong sự hiệp nhất, là một vị tiên tri của Đấng Tối Cao. Một lời tiên tri cổ xưa nói rằng các dân tộc “sẽ đập gươm thành lưỡi cày, giáo thành lưỡi câu” (Is 2: 4). Lời tiên tri này đã không được ứng nghiệm; trái lại, gươm và giáo đã biến thành tên lửa và bom đạn. Vậy từ đâu, cuộc hành trình hòa bình có thể bắt đầu? Thưa: Từ quyết định không có kẻ thù. Bất cứ ai có can đảm nhìn vào các vì sao, bất cứ ai tin vào Chúa, thì không có kẻ thù để chiến đấu. Người đó chỉ có một kẻ thù duy nhất phải đối mặt, một kẻ thù đứng ở cánh cửa trái tim và cố gõ để bước vào. Kẻ thù đó là lòng thù hận. Trong khi một số người cố gắng có kẻ thù hơn là có bạn bè, trong khi nhiều người tìm kiếm lợi nhuận của riêng mình với giá phải trả của người khác, những người nhìn vào các vì sao của lời hứa, những người theo đường lối của Thiên Chúa, không thể chống lại bất cứ ai, nhưng hòa thuận với tất cả mọi người. Họ không thể biện minh cho bất kỳ hình thức áp đặt, áp bức và lạm dụng quyền lực nào; họ không thể theo đuổi một thái độ hiếu chiến.
Các bạn thân mến, tất cả những điều này có khả thi không? Thưa: Tổ Phụ Áp-ra-ham, người có thể hy vọng giữa mọi nỗi tuyệt vọng (xem Rm 4:18), khuyến khích chúng ta. Trong suốt lịch sử, chúng ta thường xuyên theo đuổi những mục tiêu quá trần tục và tự mình hành trình, nhưng với sự giúp đỡ của Chúa, chúng ta có thể thay đổi để nên tốt hơn. Nhân loại ngày nay, đặc biệt là chúng ta, những tín đồ của tất cả các tôn giáo, phải biến các công cụ của hận thù thành công cụ của hòa bình. Chúng ta phải kiên quyết kêu gọi các nhà lãnh đạo của các quốc gia làm cho việc phổ biến vũ khí ngày càng gia tăng hiện nay nhường chỗ cho việc phân phối lương thực cho tất cả mọi người. Chúng ta có trách nhiệm làm tắt tiếng những lời buộc tội lẫn nhau để có thể lắng nghe tiếng kêu của những người bị áp bức và bị ruồng bỏ trong thế giới của chúng ta: có quá nhiều người thiếu lương thực, thuốc men, giáo dục, quyền lợi và phẩm giá! Chúng ta phải làm sáng tỏ những thủ đoạn mờ ám xoay quanh tiền của và đòi hỏi rằng tiền của không phải lúc nào cũng chỉ kết thúc trong sự củng cố những xa hoa không thể kiềm chế được của một số ít người. Việc bảo tồn ngôi nhà chung của chúng ta khỏi những mục đích săn mồi là tùy thuộc vào chúng ta. Chúng ta phải nhắc nhở thế giới rằng cuộc sống của con người có giá trị vì những gì nó là, chứ không phải vì những gì nó có; rằng cuộc sống của những người chưa sinh, người già, người di cư và đàn ông và phụ nữ, bất kể màu da hay quốc tịch của họ, luôn là thánh thiêng và đáng giá như mạng sống của những người khác! Chúng ta phải có can đảm ngước mắt lên và nhìn vào các ngôi sao, những ngôi sao mà Tổ Phụ Áp-ra-ham của chúng ta đã thấy, những ngôi sao của lời hứa.
Cuộc hành trình của Áp-ra-ham là một phước lành của hòa bình. Tuy nhiên, điều đó không hề dễ dàng: ngài phải đối mặt với những vất vả và những sự kiện không lường trước được. Chúng ta cũng có một hành trình khó khăn phía trước, nhưng giống như vị Tổ Phụ vĩ đại, chúng ta cần phải thực hiện những bước cụ thể, đặt ra và tìm kiếm khuôn mặt của người khác, chia sẻ những kỷ niệm, cái nhìn và những khoảng tĩnh lặng, những câu chuyện và trải nghiệm. Tôi đã bị ấn tượng bởi chứng tá của Dawood và Hasan, một người là Kitô hữu và một người là người Hồi giáo, đó là những người không nản lòng về sự khác biệt giữa họ, đã nghiên cứu và làm việc cùng nhau. Họ cùng nhau xây dựng tương lai và nhận ra rằng họ là anh em. Để tiến về phía trước, chúng ta cũng cần đạt được điều gì đó tốt đẹp và cụ thể cùng nhau. Đây là con đường, đặc biệt là đối với những người trẻ tuổi, những người không muốn thấy ước mơ của mình bị cắt đứt bởi những mâu thuẫn trong quá khứ! Cần phải dạy họ tình huynh đệ, dạy họ nhìn vào các vì sao. Đây là một trường hợp khẩn cấp thực sự; nó sẽ là liều thuốc hữu hiệu nhất cho một tương lai hòa bình. Với các bạn, các bạn trẻ thân mến, đây là hiện tại và tương lai của chúng ta!
Chỉ cùng với những người khác, vết thương của quá khứ mới có thể được chữa lành. Rafah kể cho chúng ta nghe về tấm gương anh hùng của Najy, thuộc cộng đồng Sabean Mandean, là người đã mất mạng trong nỗ lực cứu gia đình của người hàng xóm Hồi giáo của anh. Có bao nhiêu người ở đây, giữa sự im lặng và thờ ơ của thế giới, đã dấn thân vào những cuộc hành trình của tình huynh đệ! Rafah cũng kể cho chúng ta nghe về những đau khổ khôn tả của cuộc chiến khiến nhiều người phải từ bỏ quê hương và đất nước để tìm kiếm tương lai cho con cái của họ. Cảm ơn bạn, Rafah, đã chia sẻ với chúng tôi quyết tâm vững chắc của bạn để ở lại đây, trên mảnh đất của cha ông bạn. Cầu mong những người không thể làm được như vậy, và phải chạy trốn, có thể tìm thấy một sự chào đón tử tế, phù hợp với những người dễ bị tổn thương và đau khổ.
Chính nhờ lòng hiếu khách, một nét đặc trưng của những vùng đất này, mà Áp-ra-ham đã được Thiên Chúa đến thăm và ban tặng một đứa con trai, khi dường như mọi hy vọng đã tàn phai (x. St 18: 1-10). Anh chị em thuộc các tôn giáo khác nhau thân mến, ở đây chúng ta thấy mình như ở nhà, và từ đây, chúng ta cùng nhau cam kết thực hiện ước mơ của Thiên Chúa là gia đình nhân loại có thể trở nên hiếu khách và chào đón tất cả con cái của Người; rằng khi nhìn lên cùng một trời, gia đình nhân loại sẽ hành trình trong hòa bình trên cùng một trái đất.
Source:Holy See Press Office
Sáng thứ Bảy, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khởi hành từ Baghdad lúc 7:45 sáng để bay đi thành phố Najaf trong chuyến thăm xã giao Đại Giáo Trưởng Ali al-Sistani, là một trong những nhà lãnh đạo tinh thần hàng đầu của người Hồi Giáo Shiite Iraq.
Cuộc gặp gỡ này được dư luận đánh giá cao vì sự liều lĩnh và lòng khiên nhường của ngài.
Sau đó, lúc 10:15, ngài đã bay đến thành phố Nassiryiaat để chủ toạ một cuộc họp liên tôn tại vùng đồng bằng Ur, quê hương của Tổ Phụ Ápraham vào lúc 11:00.
Kế đó, Đức Giáo Hoàng sẽ trở về Baghdad, sau khi nghỉ ngơi, vào lúc 6 giờ chiều, ngài đã cử hành Phụng vụ Thánh theo nghi lễ Chanđê tại Nhà thờ Thánh Giuse, là nhà thờ chính tòa của Công Giáo nghi lễ Chanđê ở Baghdad.
Với cử hành này, ngài sẽ đi vào lịch sử như là vị Giáo Hoàng đầu tiên cử hành Phụng Vụ Thánh theo nghi lễ Chanđê.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:
Ở những vùng đất này, sự khôn ngoan đã được tìm kiếm ngay từ xa xưa. Quả thực việc tìm kiếm sự khôn ngoan luôn thu hút nhân loại. Tuy nhiên, thông thường, những người có nhiều phương tiện hơn có thể thu thập được nhiều kiến thức hơn và có nhiều cơ hội hơn, trong khi những người có ít phương tiện hơn bị gạt ra ngoài lề xã hội. Sự bất bình đẳng như vậy - đã gia tăng trong thời đại của chúng ta - là không thể chấp nhận được. Sách Khôn Ngoan làm chúng ta ngạc nhiên khi đảo ngược quan điểm này, và cho chúng ta biết rằng “người phận nhỏ được thương tình miễn thứ, kẻ quyền thế lại bị xét xử thẳng tay”. (Kn 6: 6). Trong mắt thế giới, những người chẳng có bao nhiêu là những kẻ bị loại bỏ, trong khi những người giầu có là những người được ban đặc ân. Đối với Thiên Chúa thì không như vậy: những người quyền lực hơn phải chịu sự xét xử gắt gao, trong khi những người rốt cùng lại là những người được Thiên Chúa chúc phúc.
Chúa Giêsu, là hiện thân của sự Khôn Ngoan, đã đưa sự đảo ngược này đến mức viên mãn trong Tin Mừng, và Người làm như vậy với bài giảng đầu tiên của mình, với các Mối Phúc Thật. Sự đảo ngược là hoàn toàn: những người nghèo, những người than khóc, những người bị bắt bớ đều được gọi là những người có phúc. Sao có thể như thế được? Đối với thế giới, những người giàu có, quyền thế và nổi tiếng mới là những người có phúc! Những người có của cải và phương tiện mới là những người được trọng vọng! Nhưng đối với Thiên Chúa thì trái lại: Những kẻ giàu có không phải là những người cao trọng, mà chính là những người nghèo trong tâm hồn; không phải những người có thể áp đặt ý muốn của mình lên người khác, mà là những người hòa nhã với tất cả mọi người. Không phải những người được đám đông tung hô, mà là những người thể hiện lòng thương xót đối với anh chị em của họ. Đến đây, chúng ta có thể tự hỏi: nếu tôi sống như Chúa Giêsu yêu cầu, tôi được cái gì nào? Chẳng lẽ như thế không phải là mạo hiểm để người khác chiếm đoạt sao? Lời mời gọi của Chúa Giêsu là đáng giá hay là một nguyên nhân gây ra thua thiệt? Thưa: Lời mời đó không phải là vô giá trị, mà là khôn ngoan.
Lời mời gọi của Chúa Giêsu là khôn ngoan bởi vì tình yêu, là trọng tâm của các Mối Phúc, cho dù nó có vẻ yếu đuối trước mắt người đời, trên thực tế tình yêu luôn chiến thắng. Trên thập tự giá, tình yêu tỏ ra mạnh mẽ hơn tội lỗi, trong ngôi mộ, tình yêu đã chiến thắng sự chết. Cũng chính tình yêu đó đã làm cho các vị tử đạo chiến thắng trong thử thách - và có bao nhiêu vị tử đạo trong thế kỷ qua, thậm chí nhiều hơn trong quá khứ! Tình yêu thương là sức mạnh của chúng ta, là nguồn sức mạnh cho những anh chị em của chúng ta, những người ở đây cũng đã phải chịu đựng những thành kiến và phẫn nộ, ngược đãi và bắt bớ vì danh Chúa Giêsu. Tuy nhiên, trong khi quyền lực, vinh quang và sự phù phiếm của thế gian qua đi, tình yêu vẫn còn. Như Tông đồ Phaolô đã nói với chúng ta: “Đức mến không bao giờ mất được” (1 Cô 13: 8). Vì vậy, sống một cuộc sống được định hình bởi các Mối Phúc là làm cho những điều đã qua trở thành vĩnh cửu, là đưa thiên đàng xuống trái đất.
Nhưng chúng ta thực hành các Mối Phúc như thế nào? Các Mối Phúc không yêu cầu chúng ta làm những điều phi thường, những kỳ công vượt quá khả năng của chúng ta. Các Mối Phúc yêu cầu chứng tá hàng ngày. Phúc cho những ai sống hiền lành, biết tỏ lòng thương xót ở bất cứ nơi nào họ đến, phúc cho những người có tấm lòng trong sạch ở bất cứ nơi nào họ sống. Để được chúc phúc, chúng ta không cần thỉnh thoảng trở thành anh hùng, nhưng phải trở thành chứng nhân hết ngày này qua ngày khác. Làm chứng là cách thể hiện sự khôn ngoan của Chúa Giêsu. Đó là cách thế giới được thay đổi: không phải bởi quyền lực và sức mạnh, mà bởi các Mối Phúc. Vì đó là điều Chúa Giêsu đã làm: Ngài đã sống cho đến cùng những gì Ngài đã nói từ đầu. Mọi sự tùy thuộc vào việc làm chứng cho tình yêu của Chúa Giêsu, đó cũng chính là lòng bác ái mà Thánh Phaolô đã diễn tả một cách tuyệt vời trong bài đọc thứ hai hôm nay. Chúng ta hãy chú ý cách thức ngài trình bày điều đó.
Đầu tiên, Thánh Phaolô nói rằng “Đức mến thì nhẫn nhục” (câu 4). Chúng ta thường không mong đợi tính từ này. Tình yêu thương dường như đồng nghĩa với lòng tốt, sự hào phóng và những việc lành phúc đức, tuy nhiên Thánh Phaolô nói rằng đức mến trên hết là sự kiên nhẫn. Kinh thánh nhắc đến đầu tiên và trên hết về sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Trong suốt lịch sử, nhân loại liên tục tỏ ra bất trung thành với giao ước cùng Thiên Chúa, rơi vào cùng những tội lỗi cũ. Tuy nhiên, thay vì ngày càng mệt mỏi và bỏ đi, Chúa luôn trung thành, tha thứ và bắt đầu lại. Sự kiên nhẫn bắt đầu đi bắt đầu lại như thế là phẩm chất đầu tiên của tình yêu, bởi vì tình yêu không phải là cáu kỉnh mà luôn là bắt đầu lại từ đầu. Tình yêu không mòn mỏi và chán nản, mà luôn thúc đẩy phía trước. Đức mến không nản lòng, nhưng vẫn sáng tạo. Đối mặt với cái ác, tình yêu không bỏ cuộc hay đầu hàng. Những người yêu thương không khép mình lại khi mọi việc xảy ra sai trái, nhưng đáp lại điều ác bằng điều thiện, trong khi nghĩ đến sự khôn ngoan khải hoàn của thập tự giá. Những nhân chứng của Thiên Chúa là như thế: không thụ động hay phó mặc cho định mệnh, để mình tùy thuộc vào những diễn biến, những cảm xúc hay những sự kiện tức thời. Thay vào đó, họ không ngừng hy vọng, bởi vì họ được đặt nền tảng trong tình yêu thương “tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (câu 7).
Chúng ta có thể tự hỏi mình: chúng ta nên phản ứng thế nào trước những tình huống không như ý? Đối mặt với nghịch cảnh, luôn có hai cám dỗ. Đầu tiên là bỏ chạy: chúng ta có thể bỏ chạy, quay lưng lại, cố gắng tránh xa tất cả. Thứ hai là phản ứng bằng sự tức giận, bằng cách phô trương vũ lực. Trường hợp của các môn đệ trong vườn Giệtsimani là một ví dụ: trong sự bối rối của họ, nhiều người bỏ chạy còn Thánh Phêrô thì cầm gươm lên. Tuy nhiên, cả bỏ chạy và cầm lấy thanh kiếm đều không đạt được gì. Trái lại, Chúa Giêsu đã thay đổi lịch sử. Bằng cách nào? Thưa: Bằng sức mạnh khiêm tốn của tình yêu, với chứng tá kiên nhẫn của mình. Đây là những gì chúng ta được gọi để thực hiện; và đây là cách Thiên Chúa thực hiện những lời hứa của Ngài.
Những lời hứa. Sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, thể hiện trong các Mối Phúc, mời gọi các chứng tá và đưa ra phần thưởng chứa đựng trong các lời hứa của Thiên Chúa. Ngay sau mỗi Mối Phúc là một lời hứa: ai thực hành chúng thì sẽ được nước Trời, được an ủi, được toại nguyện, được diện kiến thiên nhan Chúa… (x. Mt 5, 3-12). Những lời hứa của Thiên Chúa bảo đảm niềm vui không gì sánh được và không bao giờ thất vọng. Nhưng chúng được thực hiện như thế nào? Thưa: Thông qua những nhược điểm của chúng ta. Thiên Chúa ban phước cho những ai đi trên con đường nghèo khó nội tâm của họ cho đến cùng.
Đây là con đường; không có con đường nào khác. Chúng ta hãy nhìn vào Tổ Phụ Áp-ra-ham. Thiên Chúa đã hứa cho ngài con cháu đông đúc, nhưng ông và bà Sarah hiện đã già và không có con. Tuy nhiên, chính trong tuổi già kiên nhẫn và trung thành của họ, Thiên Chúa đã thực hiện điều kỳ diệu và ban cho họ một đứa con trai. Chúng ta cũng hãy nhìn vào Môisê: Thiên Chúa hứa rằng Ngài sẽ giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, và để làm điều đó, Ngài yêu cầu Môisê đi nói với Pharaôn. Mặc dù Môisê nói rằng ông nói năng không thuyết phục, nhưng chính qua lời nói của ông, Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa của Ngài. Chúng ta hãy nhìn lên Đức Mẹ, người mà theo Lề Luật không thể có con, nhưng đã được mời gọi để trở thành một người mẹ. Và chúng ta hãy nhìn vào Thánh Phêrô: thánh nhân chối Chúa, nhưng thánh nhân là người được Chúa Giêsu mời gọi để củng cố anh em của mình.
Anh chị em thân mến, có lúc chúng ta cảm thấy mình bất lực và vô dụng. Chúng ta đừng bao giờ chao đảo vì điều này, bởi vì Thiên Chúa muốn thực hiện những điều kỳ diệu một cách chính xác thông qua những nhược điểm của chúng ta.
Thiên Chúa thích làm điều đó, và đêm nay, tám lần, Ngài đã nói với chúng ta từ ţūb'ā [phúc thay], để làm cho chúng ta nhận ra rằng, với Ngài, chúng ta thực sự được “chúc phúc”. Tất nhiên, chúng ta trải qua những thử thách, và chúng ta thường xuyên sa ngã, nhưng chúng ta đừng quên rằng, khi có Chúa Giêsu, chúng ta được chúc phúc. Bất cứ điều gì thế gian lấy đi của chúng ta không là gì so với tình yêu dịu dàng và kiên nhẫn mà Chúa thực hiện qua các lời hứa của mình.
Anh chị em thân mến, có lẽ khi nhìn đôi bàn tay có vẻ trống rỗng của mình, có lẽ anh chị em cảm thấy chán nản và không hài lòng với cuộc sống. Nếu vậy, đừng sợ: Các Mối Phúc là dành cho anh chị em. Vì anh chị em là những người đang đau khổ, những người đói khát công lý, những người bị bắt bớ. Chúa hứa với anh chị em rằng tên của anh chị em được ghi khắc trong lòng Ngài, được viết trên trời!
Hôm nay tôi cảm tạ Chúa cùng với anh chị em và cho anh chị em, bởi vì ở đây, nơi mà sự khôn ngoan đã phát sinh trong thời cổ đại, rất nhiều chứng nhân đã xuất hiện trong thời đại của chúng ta, thường bị bỏ qua bởi tin tức, nhưng rất quý giá trong mắt Chúa. Những nhân chứng, bằng cách sống các Mối Phúc, đang giúp Thiên Chúa thực hiện lời hứa hòa bình của Ngài.
Source:Holy See Press Office
1. Tại Iraq, Đức Giáo Hoàng tưởng nhớ Các Vị Tử Đạo Iraq, cho hay bạo lực không thể tương hợp với tôn giáo
Nữ ký giả Inés San Martín của tạp chí Crux, ngày 5 tháng 3, khi tường thuật chuyến tông du Iraq của Đức Phanxicô, đã cho hay
Bên cạnh các bức ảnh của 48 vị tử đạo Iraq, Đức Thánh Cha Phanxicô hôm thứ Sáu đã định nghĩa các ngài như một lời nhắc nhở rằng việc kích động chiến tranh và bạo lực không phù hợp với giáo huấn tôn giáo chân chính.
Trong cuộc họp với các giám mục, tu sĩ và giáo lý viên tại Nhà thờ Đức Mẹ Cứu rỗi ở Baghdad, Đức Phanxicô nói rằng cái chết của các vị tử đạo vào ngày 31 tháng 10 năm 2010, “là một lời nhắc nhở rằng việc kích động chiến tranh và bạo lực không phù hợp với giáo huấn tôn giáo chân chính”.
Đức Hồng Y Louis Sako, người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo Chaldean, thúc giục Đức Giáo Hoàng nhanh chóng phong hiển thánh cho họ, nghĩa là công khai thừa nhận rằng 48 người Công Giáo bị 5 kẻ khủng bố sát hại trong Thánh lễ đã bị sát hại vì odium fidei, nghĩa là vì lòng căm thù đức tin.
Hai trong số những vị bị sát hại là các linh mục trẻ, cùng với một số trẻ em và một phụ nữ mang thai.
Đức Hồng Y Sako nói, “Bất kể điều gì đã xảy ra với chúng con và nỗi đau của chúng con, chúng con vẫn kiên trì trong đức tin, sự thanh thản tâm linh và tình liên đới huynh đệ của chúng con, với tất cả các nhà thờ đã cố gắng hết sức trong việc gần gũi với những người bị thương, để giúp đỡ họ và xoa dịu nỗi đau của họ”.
Đức Phanxicô cũng nói rằng ngài muốn tưởng nhớ tất cả các nạn nhân của bạo lực và bách hại, bất kể họ thuộc nhóm tôn giáo nào, điều mà ngài sẽ làm vào thứ Bảy, khi ngài đến thành phố Ur, nơi sinh của Abraham, cha của các tín hữu. Tại đó, Đức Giáo Hoàng sẽ gặp gỡ các nhà lãnh đạo của các truyền thống tôn giáo đang hiện diện ở Iraq, để tuyên bố “xác tín của chúng ta rằng tôn giáo phải phục vụ chính nghĩa hòa bình và thống nhất giữa tất cả con cái của Thiên Chúa”.
Đức Phanxicô nói, “Tối nay, tôi muốn cảm ơn anh chị em đã nỗ lực trở thành những người kiến tạo hòa bình, trong cộng đồng của anh chị em và với tín hữu của các truyền thống tôn giáo khác, bằng cách gieo hạt giống hòa giải và chung sống huynh đệ vốn có khả năng dẫn đến sự tái sinh niềm hy vọng cho mọi người”.
Cuộc tấn công năm 2010 kéo dài hơn bốn giờ, cho đến khi cảnh sát đột kích vào nhà thờ. Tại thời điểm này, những kẻ khủng bố đã tự nổ tung. Chúng không bao giờ được nhận diện chính thức.
Các cha Thaer Saadulla Abdal, 32 tuổi và Waseem Sabih Kas Boutros, 27 tuổi, đã được truyền chức lần lượt vào năm 2006 và 2007, trong cùng một nhà thờ chính tòa nơi họ chịu tử đạo.
Phía sau bàn thờ trên bức ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh bồng Chúa Giêsu là ảnh các vị tử đạo, đứng quanh cây thánh giá màu đỏ, biểu thị máu họ đổ ra. Trên mái nhà và sàn nhà, các ô vuông bằng kim loại và đá granit đánh dấu những nơi tìm thấy thi thể của các vị.
Ở bình diện giáo phận, ở Baghdad, án tử đạo của họ đã kết thúc năm 2019 khi nó được gửi đến Rôma. Trong chuyến bay từ Ý đến Iraq hôm thứ Sáu, Đức Phanxicô đã nhận được một cuốn sách biên soạn câu chuyện về các vị tử đạo này.
Đức Phanxicô nói, Nhà thờ chính tòa được “mang hào quang nhờ máu của các anh chị em của chúng ta, những người, ngay ở đây, đã trả cái giá tối hậu cho lòng trung thành với Chúa và với Giáo hội của Người”.
Ngài nói: “Cầu mong ký ức về sự hy sinh của các ngài sẽ gợi hứng để chúng ta đổi mới niềm tín thác của chúng ta vào sức mạnh của thập giá và sứ điệp cứu rỗi của nó về sự tha thứ, hòa giải và tái sinh. Vì các Kitô hữu được kêu gọi làm chứng cho tình yêu của Chúa Kitô mọi lúc và mọi nơi”.
Đức Giáo Hoàng được chào đón vào một nhà thờ chỉ đầy một nửa để bảo đảm sự gián cách xã hội, nhưng giọng hú réo của các phụ nữ có mặt đã tạo ra cảm giác rằng nhà thờ đã chật cứng. Trước khi vào trong, ngài đã dành vài phút để chào hỏi những người khuyết tật ở cửa ra vào.
Ngài nói, gian khổ là một phần trong kinh nghiệm hàng ngày của các tín hữu Iraq, lưu ý rằng trong những năm gần đây, họ đã phải đối phó với những hậu quả của chiến tranh và bách hại, cũng như sự mong manh của cơ sở hạ tầng cơ bản và cuộc đấu tranh kinh tế “thường xuyên dẫn đến đến những cuộc di tản trong nước và sự di cư của nhiều người, bao gồm các Kitô hữu, đến những nơi khác trên thế giới”.
Đức Phanxicô cũng mời gọi những người có mặt đừng “bị lây nhiễm bởi vi-rút chán nản,” có thể lây lan “khắp nơi xung quanh chúng ta,” vì Thiên Chúa đã ban cho các tín hữu một “liều vắc-xin hữu hiệu” chống lại nó: niềm hy vọng phát sinh từ sự cầu nguyện bền bỉ và lòng trung thành với các việc tông đồ”.
Ngài nói: “Với vắc-xin này, chúng ta có thể ra đi với sức mạnh đổi mới, để chia sẻ niềm vui của Tin Mừng như những môn đệ truyền giáo và những dấu hiệu sống động của sự hiện diện của vương quốc thánh thiện, công bằng và hòa bình của Thiên Chúa”.
Khi nói chuyện với các giám mục, ngài kêu gọi các ngài sống gần gũi với các linh mục của mình, để họ không coi các ngài như những nhà cai trị hay quản lý mà là “những người cha thực sự”, lo lắng cho phúc lợi của các linh mục được giao phó cho các ngài chăm sóc, sẵn sàng hỗ trợ và khuyến khích họ.
Nói chuyện với các linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo lý viên và chủng sinh, ngài kêu gọi họ can đảm và nhiệt thành loan báo Tin Mừng, không bị tiêu hao bởi yếu tố “hành chính” trong các nhiệm vụ của họ, nghĩa là, không dành toàn bộ thời gian cho các buổi nhóm họp hoặc sau bàn làm việc, để thay vào đó đồng hành với các tín hữu.
Ngài nói: “Hãy là những mục tử, đầy tớ của dân, không phải là công chức”.
Tổng hợp án tử đạo của 48 người thiệt mạng trong vụ tấn công khủng bố đã mất hơn 9 tháng để nghiên cứu. Các thông tin về mỗi vị đều khác nhau, và có hai vị mà án tử đạo chỉ có tên và sự hiện diện mà thôi.
Việc Baghdad mất 2/3 dân số Công Giáo trong hai thập niên qua, do họ bị giết hoặc buộc phải chạy trốn, khiến cuộc điều tra trở nên phức tạp hơn. Nhiều thành viên trong các gia đình của những người bị giết, những người thường được phỏng vấn cho án phong thánh, đang sống như những người tị nạn, hoặc không muốn hoặc không thể được nhận diện.
Các nhân chứng đến từ khắp nơi: Lebanon, Pháp, Canada, Úc và cả Baghdad nữa. Hầu hết kể từ đó đã chạy trốn khỏi đất nước của họ, một trong những cái nôi của Kitô giáo. Nhiều người trong số họ nói rằng những kẻ khủng bố, khi bóp cò súng hoặc trước khi kích hoạt thắt lưng chất nổ mà chúng mang theo, đã hét lên “Allahu Akbar”, có nghĩa là “Thiên Chúa vĩ đại”.
Khi quyết định mở án tử đạo, Đức Tổng Giám Mục Yousif Abba, Tổng Giám mục Công Giáo Syriac của Bagdad, đã dự tính chỉ theo đuổi án phong thánh cho hai linh mục, vì Giáo hội đã có đủ thông tin về họ. Nhưng cuối cùng, tất cả đều được bao gồm vì tất cả đều chết vì cùng một nguyên do: Họ đang tham dự Thánh lễ.
Tất cả những người mất mạng đều làm như vậy trong nhà thờ. Nhiều người bị thương nặng và phải nhập viện, nhưng đã sống sót. Ước tính có khoảng 50 người đã ẩn náu trong phòng áo nhà thờ cùng với một linh mục lớn tuổi và một phụ nữ mang thai bị trọng thương trước khi đến nơi ẩn náu an toàn. Một nhóm khoảng 20 người đã tìm thấy nơi ẩn náu ở giếng rửa tội. Họ cũng đã được cứu.
2. Kitô hữu Iraq ấm lòng vì sự quyết tâm, ngoan cường của Đức Phanxicô
Ký giả Paulina Guzik của Tạp Chí Crux, ngày 5 tháng 3, khi tường thuật chuyến tông du Iraq của Đức Phanxicô, đã cho rằng
Trước khi Đức Thánh Cha Phanxicô khởi hành chuyến tông du lịch sử tới Iraq, một số nhà quan sát đã lo ngại đối với các rủi ro ngài đang chấp nhận, vì tình hình an ninh và đại dịch COVID-19 đang tiếp diễn. Tuy nhiên, một người Mỹ đang làm việc tại đất nước này cho biết, “chưa bao giờ có thời điểm tối ưu để đến đây. Nếu bạn đợi cho đến khi an toàn và ổn định, bạn sẽ không bao giờ đến đây, bởi vì tình thế vốn không ổn định trong nhiều thập niên rồi”. Stephen Rasche, một luật sư người Mỹ, người vào năm 2015 đã quyết định cống hiến sự nghiệp của mình cho Tổng giáo phận Erbil ở khu Kurdistan của Iraq, nói như thế. Ông hiện là phó viện trưởng tại Đại học Công Giáo ở Erbil.
Rasche là tác giả cuốn The Disappearing People. The Tragic Fate of Christians in the Middle East (Những người đang biến mất. Số phận bi thảm của các Kitô hữu ở Trung Đông), và đã nói chuyện với Crux và Đài truyền hình Ba Lan trước chuyến đi của Đức Giáo Hoàng trong khi ông đang chuẩn bị cho Thánh lễ của Đức Giáo Hoàng ở Erbil vào Chúa nhật.
Rasche cho hay đại dịch COVID, các đợt cấm cửa, và các lệnh cấm đi lại trong khu vực là trở ngại lớn. Ông cho biết, “Tôi muốn nói rằng tôi rất ngạc nhiên trước ơn thánh và lòng dũng cảm của người dân địa phương ở đây trong việc thực hiện công việc cần phải làm giữa nghịch cảnh này”.
Ông nói thêm, “Nhưng tôi không ngạc nhiên vì đây là những gì họ đã phải đối phó trong nhiều năm, chỉ có điều họ rất kiên trì, và tôi không mong đợi gì hơn”.
Rasche cho biết, nhóm đang chuẩn bị cho chuyến thăm cũng cảm thấy ấm lòng trước sự ngoan cường của Đức Thánh Cha Phanxicô “dù với tất cả những khó khăn của chuyến đi này trong việc cố gắng sắp xếp nó với đội ngũ nhân viên nhỏ bé của chúng tôi - thấy được sự can đảm không ngừng của Đức Thánh Cha, liên tục nói, 'Tôi sẽ đến' - bạn biết đấy với các cuộc tấn công hoả tiễn và bất cứ điều gì – ngài vẫn đã không thối chí”.
Ông nói rằng có một đà thúc đẩy lớn phát xuất từ thái độ của Đức Giáo Hoàng khiến “có một cảm thức liên đới và can đảm thực sự được chúng tôi cảm nhận lúc này - một tháng trước… đây quả là một công việc bề bộn. Làm thế nào để hủy bỏ đây? Nhưng bây giờ quyết tâm của Đức Thánh Cha đang có một tác động, một tác động rất tích cực”.
Tầm lớn lao của lịch sử Kitô giáo của Iraq cũng ngang tầm như tầm lớn lao của đau khổ hiện nay của các cộng đồng Kitô giáo của đất nước. Năm 2003, trước khi Hoa Kỳ can thiệp vào Iraq, ước tính có khoảng 1.5 triệu Kitô hữu sống ở nước này. Sau những năm chiến tranh, mà đỉnh cao là vụ diệt chủng của ISIS, con số người theo Kitô giáo ở Iraq hiện chỉ còn 500,000 người.
Rasche cho biết ông hy vọng rằng chuyến tông du sẽ gửi một thông điệp đến các chính phủ địa phương và khắp thế giới “rằng các Kitô hữu này cần được bảo vệ, cần được đối xử như những người có quyền bình đẳng, có phẩm giá, để họ có thể tiếp tục ở lại như là một phần của tấm vải dệt nên vùng đất này”.
Đối với Rasche, tầm quan trọng của cuộc gặp gỡ của Đức Giáo Hoàng với Iraq không nằm ở những khoảnh khắc huynh đệ với các nhà lãnh đạo Hồi giáo trong nước, mà ở những khoảnh khắc chia sẻ với các Kitô hữu đau khổ của vùng đất cổ kính.
Ngài nói: “Đối với các Kitô hữu ở Iraq, điều quan trọng nhất là đó là lời tuyên bố với họ rằng Đức Thánh Cha, Tòa Thánh, Giáo hội Hoàn vũ không quên họ”.
Rasche nói thêm, các Kitô hữu Iraq hy vọng thông điệp sẽ được chuyển đến Hoa Kỳ, đến Liên minh Châu Âu và các chính phủ trên toàn thế giới: “Họ hy vọng và cầu nguyện rằng đây là sự suy nghĩ cho mọi người trên thế giới - hãy nhìn nhóm nhỏ này, những Kitô hữu còn lại ở đây - họ quan trọng đối với Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha ở cùng những người này và vì vậy họ nên được các bạn coi là quan trọng”.
Rasche cho rằng phản ứng của Giáo hội Phổ quát đối với chế độ khủng bố của ISIS trong các năm 2013-2017 hết sức chậm chạp và rất khiêm nhường. Ngoại trừ các tổ chức Kitô giáo đang hoạt động tại chỗ, bao gồm tổ chức Giúp đỡ Các Giáo hội Túng thiếu, hội Hiệp sĩ Columbus, Missio, và nhiều tổ chức Kitô giáo tư nhân khác, các Kitô hữu cảm thấy bị bỏ rơi.
Dấu hiệu liên đới từ Vatican xuất hiện vào năm 2018, khi Thượng phụ Babylon của người Chaldeans và đứng đầu Giáo Hội Công Giáo Chaldean, Louis Raphaël I Sako, được phong Hồng Y.
Rasche nói: “Đấy là một lời tuyên bố”, và nói thêm rằng các Kitô hữu Iraq” đã có chuyến thăm lịch sử của Đức Hồng Y Parolin vào dịp Giáng sinh hai năm trước “, đây là” một sự kiện lớn và rất cần thiết “đối với các Kitô hữu đang cảm thấy họ chỉ là một phần của cuộc thảo luận về những người tị nạn trong khu vực, và thất vọng khi thấy Vatican đã không quan tâm nhiều hơn đến những anh chị em đang đau khổ của họ.
Đức Phanxicô là vị giáo hoàng đầu tiên đặt chân lên vùng đất của Abraham, mặc dù Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dự định đến đây vào năm 2000, nhưng sự gia tăng thù nghịch khiến chuyến đi không thể xảy ra.
Rasche nói rằng quyết tâm của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Iraq có thể so sánh với tinh thần của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô viếng thăm Ba Lan cộng sản vào năm 1979.
“Đất nước đang tan rã, rất nhiều khó khăn và ở đây ở Iraq - đó là một đất nước tan vỡ nhưng há đó không chính xác là đất nước mà Giáo hoàng nên đến thăm hay sao?”