Ngày 29-07-2018
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Tâm tình cùng báo giới
Nam Điểu
16:37 29/07/2018
TÂM TÌNH CÙNG BÁO GIỚI

Cả nước Việt Nam
Gần ngàn tờ báo
Nhưng rặt nói láo
Một giuộc như nhau !

Bao chuyện đớn đau
Đắng cay chua xót
Dân ta đứt ruột
Khổn khổ lầm than

Bị xử dã man
Thua cả con chó
Đầu đường cuối ngõ
Muôn cảnh khốn cùng

Bao chuyện bất công
Bạo quyền lấp liếm
Đậy che dấu diếm
Thối nát trong ngoài

Báo chí bịt tai
Ngậm mồm che mắt
Đưa tin què quặt
Đầu Sở mình Ngô

Những chuyện bưng bô
Ngửi trôn liếm đít
Mọp đầu sát đất
Của lũ bạo quyền

Chẳng dám thông truyền
Cho dân được biết
Rụt đầu sợ sệt
E vỡ nồi cơm

Đưa mặt nhơn nhơn
Vây quanh “lãnh đạo”
Thật là xông xáo
Há miệng “đớp lời”

Coi như “các ngài”
Là thần giáng thế
Nên làm ra vẻ
Khuyển mã trung thành

Dù bụng rành rành
Biết rằng láo toét
Những chuyện đục khoét
Biết rõ mười mươi

Nhưng đố có ai
Dám nói sự thật
Những chuyện bí mật
Câm miệng cho lành

Có đứa ma-lanh
Lại còn khen ngợi
Thằng kia vĩ đại
Con nọ giỏi giang

Một lũ ác gian
Một đoàn tham láo
Nhưng bọn làm báo
“Vạn tuế, muôn năm”

Lũ sâu mọt dân
“Minh quân, sáng suốt”
Sắp sửa bắc thuộc
Làm nô lệ Tàu

Rồi lại cúi đầu
Làm thân đầy tớ
E nồi cơm vỡ
Lúc ấy liệu rằng

Dẩu mõm nhăn răng
Nịnh thằng đô hộ
Thì nó che chở
Thí chút của rơi ?

Nước đã mất rồi
Còn mong chi nữa
Nồi thì đã vỡ
Gạo cũng chẳng còn

Lúc ấy nỉ non
Hối thì đã muộn
Bấy giờ có muốn
Quay lại làm sao

Nên thân ngựa trâu
Cho Tàu nó cưỡi
Cửa nhà lụn bại
Gia sản thành tro

Còn lũ Hán nô
Cao bay xa chạy
Tiền vàng đã lấy
Cuốn gói đem đi

Mình có còn gì
Hòng vào đâu nữa
Nát nhà tan cửa
Xói đất vỡ bờ

Thôi thôi bây giờ
Quay đầu còn kịp
Hãy mau đoàn kết
Sống chết một lòng

Chớ bẻ bút cong
Ngẩng đầu cho thẳng
Lòng trung phải thắng
Bè lũ dối gian

Xảo trá vạch trần
Ác tà tiêu diệt
Quét cho sạch hết
Những đứa tham ô

Những lũ côn đồ
Chỉ tên vạch mặt
Dân là tai mắt
Che chở cho ta

Một dải sơn hà
Là của dân Việt
Đuổi giặc Tàu chệt
Diệt lũ bạo quyền

Hỡi anh chị em
Hãy mau tỉnh ngộ !
Hỡi anh chị em
Hãy mau tỉnh ngộ !
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Tin Mừng Gia Đình, Các Phụ Chương
Vũ Văn An
05:54 29/07/2018
Phụ Chương 1: Đức tin mặc nhiên

Sư phạm của Thiên Chúa nói trên vốn là chủ đề liên lỉ của các giáo phụ (Clêmentê thành Alexandria, Irênê thành Lyons v.v…). Truyền thống Kinh Viện khai triển ra giáo huấn fides implicita (đức tin tiềm ẩn). Điều này dẫn khởi từ Thư Do Thái 11:1,6: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng… ai đến gần Thiên Chúa, thì phải tin là có Thiên Chúa và tin Người là Đấng ban phần thưởng cho những ai tìm kiếm Người”.

Đối với Thánh Tôma Aquinô, đức tin vào Thiên Chúa là nội dung đích thực của đức tin. Đối với ngài, đức tin vào Thiên Chúa như mục đích và hạnh phúc tối hậu của con người cũng như đức tin vào ơn quan phòng của Thiên Chúa suốt trong lịch sử đã tạo nên các chân lý đức tin vốn là máng chuyển ơn cứu rỗi. Các chân lý này cũng mặc nhiên bao gồm sự nhập thể và các thống khổ của Chúa Kitô (23). Trong các đoạn khác, ngay khi Thánh Tôma thay đổi danh sách các chân lý đức tin cần cho sự cứu rỗi (thí dụ Summa Theologiae, q. 1, a.6 ad 1), ta vẫn coi câu vừa rồi là tuyên bố chính của ngài liên quan tới chủ đề đức tin mặc nhiên (24). Do đó, luận đề cho rằng để một hôn nhân thành hiệu chỉ cần người kết hôn có ý định kết ước một cuộc hôn nhân theo cung cách các Kitô hữu quen làm đã không thoả mãn đòi hỏi tối thiểu này. Đối với những ai chỉ là Kitô hữu về phương diện văn hóa, thứ ý định này chỉ bao gồm ý định kết ước cuộc hôn nhân của họ theo nghi lễ thông thường của Giáo Hội, không hẳn vì đức tin, mà đúng hơn để lễ cưới của họ long trọng hơn, mừng vui hơn so với lễ cưới dân sự.

Muốn cho bí tích hữu hiệu, điều không thể thiếu là phải tin vào Thiên Chúa hằng sống như là mục tiêu và hạnh phúc của nhân loại và tin vào sự quan phòng của Người, nghĩa là tin Thiên Chúa muốn dẫn ta trên đường đời tới mục đích và hạnh phúc đời ta. Khởi diễn từ xác tín ban đầu nhưng nền tảng này, làm điều kiện tối thiểu cho việc lãnh nhận bí tích có hiệu quả, việc dạy giáo lý để chuẩn bị kết hôn trong Giáo Hội phải cho thấy Thiên Chúa đã biểu lộ nơi ta mục tiêu này và Chúa Giêsu Kitô cách cụ thể ra sao làm đường tiến tới mục tiêu này và hạnh phúc đời ta. Nó cần chỉ rõ tình yêu và lòng trung tín của Người trở nên hiện hữu cách hữu hiệu ra sao nơi Giáo Hội qua bí tích hôn phối, để đồng hành với các cặp đính hôn và các cặp kết hôn cùng với con cái mà Chúa sẽ ban cho họ, trên đường đời tương lai với nhau và dẫn họ tới hạnh phúc đời họ, là được sống trong Chúa và với Chúa và, sau cùng, được hưởng cuộc sống trường sinh. Qua cách này, mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội, vốn trở nên cụ thể trong hôn nhân, sẽ dần dần được tỏ lộ.

Phụ Chương 2: Thực hành của Giáo Hội Sơ Khai

Theo Tân Ước, ngoại tình và tà dâm (fornication) là các tác phong hoàn toàn mâu thuẫn với tư cách làm Kitô hữu. Bởi thế, thời Giáo Hội Sơ Khai, song song với tội bỏ đạo và giết người, ngoại tình cũng thuộc loại tội trọng khiến người phạm tội bị loại ra khỏi Giáo Hội. Theo lối suy nghĩ của Cựu Ước Do Thái, vì sự tà dâm của một người phối ngẫu “làm ô nhiễm” (Lv 18:25, 28; Đnl 24:4; Hs 4:2tt, Grm 3:1-3, 9) người phối ngẫu kia và toàn thể cộng đồng, nên người chồng, theo dự liệu ngoại tình trong Mátthêu (Mt 5:32 và 19:9), là Tin Mừng được viết cho Kitô hữu gốc Do Thái Giáo, được phép, thậm chí có khi còn bị truyền, bỏ người vợ ngoại tình. Dĩ nhiên, ngay từ thuở ban đầu, các giáo phụ đã nhấn mạnh rằng cùng một quyền lợi và cùng một bổn phận phải được áp dụng cho cả người đàn bà lẫn người đàn ông. Từ các bản văn, ta không thể hoàn toàn biết rõ về thực hành của giáo hội sơ khai liên quan tới việc giải thoát khỏi hôn nhân vì tội ngoại tình. Vì các bản văn này không luôn phân biệt rõ giữa ngoại tình và tà dâm, song hôn đồng thời và tiếp nối sau cái chết của người phối ngẫu thứ nhất (dù trường hợp sau được tranh luận trong một số vụ), và ly thân vì cái chết hay xua đuổi. Liên quan tới các câu hỏi liên hệ có tính giải thích và lịch sử, ta thấy có một bộ văn chương khá hoàn bị cũng như nhiều lối giải thích khác nhau. Một đàng, nên nhắc tới Giovanni Cereti với cuốn “Divorzio, Nuove nozze e penitenza nella Chiesa primitive (Bologna: Edizioni Dehoniane, 2013 [1977]”; và đàng khác, là Henri Crouzel với cuốn “L’Église primitive face au divorce” (Paris: Beauchesne, 1971) và Joseph Ratzinger với “Zur Frage der Unaufloslichkeit der Ehe: Bemerkungen zum dogmengeschichtlichen Befund und seiner gegenwartigen Bedeutung” trong “Ehe und Ehescheidung” do Franz Heinrich và Volker Eid chủ biên (Munich: Kosel Verlag, 1972) 35-56.

Tuy nhiên, không thể hoài nghi sự kiện này: thời giáo hội sơ khai, theo luật phong tục, tại một số giáo hội địa phương, vốn có thực hành khoan dung, nhân hậu, và kiên nhẫn (forbearance) sau một thời kỳ thống hối. Chính căn cứ vào hậu cảnh của thực hành này mà ta cần phải hiểu điều 8 của Công Đồng Nixêa năm 325, là điều nhằm chống lại chủ nghĩa khắt khe của phái Nôvatiô. Luật phong tục này đã được Origen minh nhiên chứng thực. Ông coi nó không phi lý (Chú Giải Mátthêu, 14:23). Thánh Basilêô Cả (Thư 188:4 và 199:18) và một số vị khác cũng nhắc tới nó. Họ biện minh cho câu “không vô lý” bằng ý hướng mục vụ để “tránh điều xấu hơn”. Trong Giáo Hội La Tinh, thực hành này bị bãi bỏ bởi thế giá của Thánh Augustinô để ủng hộ một thực hành nghiêm nhặt hơn. Nhung trong một đoạn khác, ngay Thánh Augustinô cũng nói tới một sai lầm có thể tha thứ được (Về Đức Tin và Việc Làm, 19:35). Nên xem ra cả ngài nữa cũng không loại bỏ mọi giải pháp mục vụ ngay từ đầu. Ngay cả sau đó, Giáo Hội Tây Phương, với các quyết định tại các thượng hội đồng hay các định chế tương tự, cũng nhiều lần tìm kiếm và đã tìm ra nhiều giải pháp cụ thể cho các hoàn cảnh khó khăn. Theo P. Fransen, “Das Thema ‘Ehescheidung und Ehebruch’ auf dem Konzil von Trient (1563)”, Concilium 6 (1970): 343-348, Công Đồng Trent lên án chủ trương của Luther, nhưng không lên án thực hành của Giáo Hội Đông Phương. Hubert Jedin đồng ý như vậy.
Các Giáo Hội Chính Thống duy trì quan điểm mục vụ của truyền thống giáo hội sơ khai, phù hợp với nguyên tắc oikonomia (khoan dung) của họ. Tuy nhiên, từ thế kỷ thứ sáu, theo luật đế quốc Byzantine, họ đã đi quá cả chủ trương khoan dung mục vụ để, ngoài các điều khoản liên quan tới ngoạị tình, còn thừa nhận nhiều cơ sở phụ cho việc ly dị, đặt căn bản trên cái chết tinh thần chứ không chỉ trên cái chết thể lý của dây hôn phối. Giáo Hội Tây Phương đi theo con đường khác hẳn. Giáo Hội này loại bỏ việc tiêu hủy một cuộc hôn nhân bí tích đã được kết giao thành sự và được hoàn hợp giữa các cá nhân đã chịu phép rửa (Bộ Giáo Luật điều 1141). Tuy nhiên, Giáo Hội này nhìn nhận việc tiêu hủy các cuộc hôn nhân chưa hoàn hợp (Bộ Giáo Luật điều 1142) cũng như việc tiêu hủy những cuộc hôn nhân không bí tích bằng đặc ân Thánh Phaolô hay đặc ân Thánh Phêrô (Bộ Giáo Luật điều 1143). Ngoài ra, còn có những án tuyên bố vô hiệu vì những thiếu sót về hình thức. Khi cho phép như thế, người ta có thể tự hỏi há các quan điểm luật pháp, chỉ mới có trong lịch sử sau này, đã chẳng được đẩy về phía sau đó sao?

Joseph Ratzinger đề nghị tiếp nhận quan điểm của Thánh Basilêô một cách mới mẻ. Đề nghị này xem ra là một giải pháp thích đáng, một giải pháp cũng làm nền cho các suy nghĩ hiện thời của tôi. Ta không thể hành động dựa vào thế giá của lối giải thích này hay lối giải thích nọ hiện vẫn còn đang bị tranh cãi. Ta lại càng không thể đơn thuần lặp lại các giải pháp của giáo hội sơ khai cho hoàn cảnh hiện nay của ta, là hoàn cảnh hoàn toàn khác biệt. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh thay đổi của ta, ta có thể tiếp nhận một lần nữa các quan tâm nền tảng của giáo hội sơ khai và tìm cách thể hiện chúng trong hoàn cảnh hiện nay, một cách phải lẽ và công bằng dưới sự soi sáng của Tin Mừng.

Ghi Chú

1. Các văn kiện quan trọng nhất là: Công Đồng Trent: DH 1797-1816; Công Đồng Vatican II, Gaudium et spes 47-52 (GS); tông huấn Familiaris Consortio (1981) (FC); Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo (1993), 1601-1666 (SGLCGHCG); tông huấn Sacramentum Caritatis (2007) 27-29; và thông điệp Lumen Fidei (2013) 52tt.

2. Liên quan tới việc khai triển giáo huấn này: Công Đồng Vatican I (DH 300020) và Công Đồng Vatican II (DV 8); John Henry Newman, Essay on the Development of Christian Doctrine (London: James Toovey, 1845). Yves Congar, Tradition and Traditions: An Historical and a Theological Essay (New York: Macmillan, 1967).

3. Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, I/II, q.106, a.1 và 2; xem EG 37.
4. Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, III q. 61, a.4.
5. Xem Phụ Chương 1.
6. Định nghĩa luật tự nhiên trong Các Sắc Chỉ (Decretals) Của Gratian (D. 1 d.a.c. 1), là sách đã trở thành qui phạm đối với truyền thống luật tự nhiên của Thời Trung Cổ, và cho cả đầu thời hiện đại và Kitô Giáo Cải Cách trước đó.

7. Từ việc phân biệt giữa tính dục, hay tính dục sinh học, và phái tính (gender), hay việc lên khuôn tính dục có tính xã hội và văn hóa, một số chủ trương đã rút ra sự bình đẳng nền tảng và do đó, tính tùy tiện (arbitrariness) của một số cấu hình khác nhau về tính dục, bất kể là đơn hôn, đa hôn, dị tính, đồng tính hay chuyển tính (transsexual). Đàng sau các chủ trương này là chủ nghĩa nhị nguyên hồn xác của tân ngộ đạo, là chủ nghĩa không nhận ra sự thống nhất và tính toàn bộ (holism) của con người nhân bản (xem 1Cor 1:12-20). Theo xác tín Kitô Giáo, thân xác, ngay trong tính dục của nó, vẫn là một biểu tượng thực sự của linh hồn, còn linh hồn xác định ra mô thức sống (life-form) của thân xác. Điều quan trọng là cần phải thêm rằng thiết lập ra sự kiện dị biệt hóa không hề hàm nghĩa hay biện minh cho kỳ thị (xem Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo 2357-2359).
8. Khởi từ phương thức bản vị toàn diện của nó, ta có thể giải thích thông điệp của Đức Phaolô VI liên quan tới việc làm cha mẹ có trách nhiệm, Humanae Viae (1968), theo nghĩa toàn bộ này. Familiaris Consortio 29 và 31f cũng tương tự như thế.
9. Bênêđíctô XVI, thông điệp Caritas in Veritate (2009), 1-9, 30, 33.
10. Về điểm này, xin xem Hiến Chương Các Quyền Gia Đình (1983) của Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình và Tuyển Tập Giáo Huấn Xã Hội Giáo Hội (2004), 209-254 của Hội Đồng Giáo Hoàng về Công Lý Và Hoà Bình.
11. Xem Mc 10: 2-12; Lc 16:18; 1 Cr 7:10f. Về các điều khoản liên quan tới ngoại tình, Mt 5:32 và 19:9, và liên quan tới 1Cr 7:15, xin xem tiết 5 và phụ chương 2.
12. Thánh Augustinô, Về Hôn Nhân và Tư Dục, 1:10, 11; Về Các Cuộc Hôn Nhân Ngoại Tình; Bài Giảng 392:2.
13. Thánh Gioan Kim Khẩu, In genesim Sermo, 6:2; 7:1.
14. Đức Gioan Phaolô II, thông điệp Redemptoris Missio, 51; Familiaris Consortio 21, 49-64; Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo 1655-1658; Lumen Fidei, 52tt.
15. Đức Gioan Phaolô II, tông huấn Catechesi Tradendae (1979), 68.
16. Một vấn đề, vốn chỉ có thể nêu ra ở đây, được nêu lên cho các cuộc hôn nhân và các gia đình hỗn hợp về phương diện tuyên tín, tức các cuộc hôn nhân và gia đình không thể cùng nhau chia sẻ trọn vẹn Thánh Thể được.
17. Về Chúa Nhật, xem Đức Gioan Phaolô II, tông huấn Dies Domini (1998), 55-57. Về linh đạo của communio: tông huấn Novo Millennio Ineunte (2001), 43.
18. Xem Joseph Ratzinger, “Zur Frage der Unaufloslichkeit der Ehe: Bemerkungen zum dogmengeschichtlichen Befund und seiner gegenwartigen Bedeutung” trong Ehe und Ehescheidung, do Franz Heinrich và Volker Eid (Munich: Kosel Verlag, 1972), 35, 56. Xem phụ chương hai liên quan tới điều sau.
19. Xem Công Đồng Trent: DH 1542 và 1672.
20. Công Đồng Nixêa, điều 8; khi trở lại Giáo Hội Công Giáo, “những người gọi là trong sạch” được yêu cầu những điều sau: “họ phải cổ vũ lối sống cộng đoàn cả với những người đang sống trong cuộc hôn nhân thứ hai cũng như với những người bỏ đạo thời bách hại”.
21. Thánh Bênêđíctô, Luật, 64-17-19. Nói tổng quát hơn, đối với Thánh Tôma, khôn ngoan là nền tảng, là cội rễ và là nguyên tắc hướng dẫn mọi cuộc sống tốt đẹp: Summa Theologiae, I/II, q.57, a.6; q.58, a.4.
22. Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, I/II, q.64, a.1tt; De Virt., a.13.
23. Xem Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, I/II, q.1, a.7.
24. Xem phụ chương trong ấn bản tiếng Đức các tác phẩm của Thánh Tôma (Munich và Salzburg, 1950) Vol 15: 431-437.

Kỳ sau: Nhận Định Kết Thúc Về Cuộc Thảo Luận
 
Tin Mừng Gia Đình, Nhận Định Kết Thúc Về Cuộc Thảo Luận
Vũ Văn An
17:08 29/07/2018
Nhận Định Kết Thúc Về Cuộc Thảo Luận

Trước hết, tôi phải ngỏ lời cám ơn. Đặc biệt, tôi xin cám ơn Đức Thánh Cha đã có những lời thân hữu và tin tưởng khi ủy thác cho tôi thực hiện phúc trình này. Tôi cũng xin cám ơn mọi người vì đã kiên nhẫn lắng nghe tôi khá lâu. Tôi phải ngỏ lời cám ơn cả các phản ứng tích cực lẫn các phản ứng ít nhiều có tính phê phán. Tôi không muốn và không thể đi vào từng phản ứng riêng rẽ, chỉ xin giới hạn vào ba điểm sau đây:

1. Chúng ta đồng ý rằng lời dạy của Chúa Giêsu, theo đó, con người nhân bản không thể nào phân rẽ điều Thiên Chúa đã kết hợp (Mt 19:6), phải là khởi điểm và là nền tảng của mọi suy tư của ta. Không ai nghi ngờ tính bất khả tiêu của một cuộc hôn nhân bí tích đã thành sự và hoàn hợp (ratum et consumatum).

Thực thế, chúng ta cũng không được tách biệt lời Chúa Giêsu dạy ra khỏi ngữ cảnh toàn diện của sứ điệp của Người về nước Thiên Chúa và về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Đúng hơn, chúng ta đồng ý phải giải thích lời lẽ của Người trong ngữ cảnh này. Cũng thế, ta phải hiểu tín lý về tính bất khả tiêu của hôn nhân trong tương quan nội tại với các mầu nhiệm của đức tin, như Công Đồng Vatican I vốn dạy (DH 3016), và trong phẩm trật các chân lý đức tin, như Công Đồng Vatican II dạy trong Sắc Lệnh về Đại Kết số 11. Do đó, chúng ta phải hiểu và hiện thực hóa lời dạy của Chúa Giêsu và giáo huấn của Giáo Hội trong tương quan với sứ điệp của Chúa Giêsu về lòng thương xót vô lượng của Thiên Chúa đối với mọi người hối cải và muốn được Người thương xót. Làm như thế, chúng ta đồng ý rằng lòng thương xót không phải là một thứ ơn thánh rẻ tiền. Vì nó không miễn chước việc hồi tâm của bản thân và lẽ dĩ nhiên, không loại bỏ sự thật. Lòng thương xót luôn được nối kết với sự thật, nhưng ngược lại, sự thật cũng nối kết với lòng thương xót. Lòng thương xót là nguyên tắc chú giải học để giải thích sự thật. Nó là điều cần thiết để thi hành sự thật trong tình yêu (Ep 4:15).

Ta còn một nguyên tắc chú giải học khác nữa. Theo cách hiểu của Công Giáo, ta phải giải thích lời dạy của Chúa Giêsu trong ngữ cảnh của toàn bộ truyền thống Giáo Hội. Trong trường hợp của ta, truyền thống này không hề có tính độc tuyến (unilinear), như người ta vốn quả quyết. Có những vấn đề thuộc lịch sử và nhiều ý kiến chuyên môn khác nhau mà ta không thể đơn thuần làm ngơ. Giáo Hội luôn cố gắng đi tìm con đường trung dung giữa chủ nghĩa khắt khe và chủ nghĩa lỏng lẻo, nghĩa là tìm cách áp dụng sự thật trong yêu thương.

2. Tính độc đáo của mọi con người là thành tố căn bản của nền nhân học Kitô Giáo. Không con người nhân bản nào đơn thuần chỉ là một điển hình của bản tính nhân loại nói chung, và không một con người nhân bản nào bị phán xử duy nhất bằng qui luật tổng quát. Chúa Giêsu không bao giờ nói tới chủ nghĩa này hay chủ nghĩa nọ, bất kể là chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tiêu thụ, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa tương đối hay chủ nghĩa đa dục (pansexualism)… Trong một dụ ngôn, Người nói tới Người Chăn Chiên Tốt Lành bỏ 99 con chiên lại để đi tìm 1 con chiên lạc, để rồi vác nó lên vai khi tìm thấy nó và đưa nó về đàn. Chúa nói: “cũng thế, tôi bảo các ông: thiên đàng hân hoan vì 1 người tội lỗi biết ăn năn hơn 99 người công chính không cần phải ăn năn” (Lc 15:1-7).

Nói cách khác, không hề có người ly dị và tái hôn nói chung, mà đúng hơn, chỉ có những cá nhân ly dị và tái hôn trong các tình huống rất khác nhau, mà ta cần phải phân biệt cẩn thận. Cũng không có tình huống khách quan nói chung tạo ngăn trở cho việc cho phép rước lễ, mà đúng hơn có nhiều tình huống khách quan rất khác nhau. Thí dụ, nếu một người đàn bà bị bỏ rơi mà không hề có một chút lỗi lầm nào và, vì lợi ích của con cái, bà cần một người chồng hay một người cha, và bà trung thực cố gắng sống cuộc sống Kitô hữu trong cuộc hôn nhân và gia đình thứ hai theo luật dân sự, và dưỡng dục con cái thành Kitô hữu, đồng thời tham dự giáo xứ một cách gương mẫu, một điều rất thường xẩy ra, thì điều này cũng thuộc loại tình huống khách quan, nhưng khác trong yếu tính với một tình huống, tiếc thay, cũng rất thường xẩy ra là: một ai đó bước vào cuộc hôn nhân thứ hai theo luật dân sự một cách ít nhiều dửng dưng đối với tôn giáo và sống ít nhiều như người không thực hành đạo.

Do đó, ta không nên khởi đi từ một quan niệm trong đó tình huống khách quan bị rút gọn vào một điểm duy nhất. Đúng hơn, ta phải nghiêm túc tự hỏi liệu ta có thực sự tin sự tha tội mà ta vốn tuyên xưng trong Kinh Tin Kính hay không và ta có thực sự tin một ai đó phạm lỗi lầm, rồi ăn năn, và không thể đảo ngược được lỗi lầm ấy mà không rơi vào một mặc cảm tội lỗi mới, nhưng đã làm mọi điều có thể làm được, vẫn có thể nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa, và liệu lúc ấy ta có thể từ khước việc giải tội cho họ hay không? Đấy phải chăng là lập trường của Người Chăn Chiên Tốt Lành và Người Samaritanô nhân hậu?

Đối với những trường hợp đặc thù như trên, không như các giáo hội Chính Thống, truyền thống Công Giáo nhất định không thừa nhận nguyên tắc oikonomia (khoan dung), nhưng truyền thống này biết một nguyên tắc tương tự gọi là epikeia (thích nghi vào hoàn cảnh cụ thể), biện phân thần khí và thuyết đồng cái nhiên (equiprobabilism) của Thánh Anphôngsô đệ Liguori. Truyền thống này cũng nhìn nhận cái hiểu của trường phái Tôma về nhân đức khôn ngoan (prudence) vốn là một nhân đức nền tảng giúp áp dụng qui luật tổng quát vào tình huống cụ thể (mà theo nghĩa của Thánh Tôma Aquinô, không liên quan gì tới đạo đức học hoàn cảnh).

Tóm lại, trong vấn đề đang bàn, không hề có giải pháp tổng quát cho mọi trường hợp. Đây không phải là vấn đề cho phép chung người ly dị và tái hôn nói chung. Mà đúng hơn, ta phải nghiêm túc lưu ý tới tính độc đáo của mọi con người và của mọi tình huống và thận trọng phân biệt và quyết định từng trường hợp một. Bằng cách này, con đường hồi tâm và đền tội, như hình thức được Giáo Hội sơ khai thừa nhận, không phải là con đường của quảng đại quần chúng, mà đúng hơn là con đường của các Kitô hữu đặc thù, có thái độ nghiêm túc thực sự đối với các bí tích.

3. Chân Phúc John Henry Newman từng viết một khảo luận lừng danh tựa là “Về Việc Tham Khảo Tín Hữu Trong Các Vấn Đề Đức Tin”. Ngài chứng minh rằng trong cuộc khủng hoảng Ariô ở hai thế kỷ thứ 4 và thứ 5, không phải các giám mục, mà đúng hơn là các giáo dân đã duy trì được đức tin của Giáo Hội. Thời ấy, Chân Phúc Newman bị nhiều người cực lực phê phán, nhưng nhờ tuyên bố như thế mà ngài đã trở thành người tiền phong của Công Đồng Vatican II, một Công Đồng, một lần nữa, đã nhấn mạnh tới giáo huấn cảm thức đức tin, một cảm thức mà tín hữu nào, nhờ phép rửa, cũng được ân ban (Lumen Gentium, các số 12, 35).

Điều cần là phải xem trọng cảm thức đức tin của các tín hữu, nhất là vì nó có liên quan tới chủ đề của chúng ta ở đây. Chúng ta hiện diện ở đây trong mật nghị hội Hồng Y đều là người độc thân; tuy nhiên, đại đa số tín hữu sống thực niềm tin của họ vào tin mừng gia đình trong các gia đình cụ thể và đôi khi trong các tình huống khó khăn. Cho nên, chúng ta nên lắng nghe lời chứng của các tín hữu cũng như phải lắng nghe những gì các đồng sự mục vụ và các huấn đạo viên về chăm sóc mục vụ gia đình muốn nói với chúng ta. Họ vốn có nhiều điều muốn nói với chúng ta. Bởi thế, toàn bộ vấn đề không thể được quyết định bởi một ủy ban chỉ gồm các vị Hồng Y và giám mục mà thôi. Điều này không loại bỏ việc quyết định cuối cùng vẫn nằm trong tay Thượng Hội Đồng trong đồng thuận với Đức Giáo Hoàng.

Trong vấn đề này, hiện đang có nhiều mong chờ trong Giáo Hội. Dĩ nhiên, không phải mong chờ nào cũng được thể hiện. Nhưng sẽ là một thất vọng lớn lao nếu chúng ta chỉ lặp lại những giải đáp vốn dĩ giả thiết phải luôn được nêu ra. Là các chứng nhân của hy vọng, chúng ta không nên để mình bị hướng dẫn bởi một khoa chú giải sợ sệt. Cần một thứ can đảm và trên hết một thứ bộc trực theo nghĩa Thánh Kinh (parrhesia). Nếu không muốn điều đó thì chúng ta không nên tổ chức một thượng hội đồng về chủ đề này, vì như thế tình thế sau đó sẽ trở nên tồi tệ hơn trước. Ít nhất, chúng ta cũng nên hé cánh cửa để giáo dân hy vọng và mong chờ và ít nhất cho họ một dấu hiệu để họ thấy rằng về phần chúng ta, chúng ta coi trọng các hy vọng cũng như các vấn nạn, các lo âu và nước mắt của biết bao Kitô hữu nghiêm túc.

Lời bạt: Ta có thể làm gì?

Những cuộc đàm đạo trong nhiều năm qua với các mục tử, huấn đạo viên về hôn nhân và gia đình, và với các cặp vợ chồng bị ảnh hưởng đã được thực hiện trước khi có các suy tư được trình bày với mật nghị hội Hồng Y lần này. Liền ngay sau bài trình bày, các cuộc đàm đạo kiểu trên đã lập tức diễn ra lần nữa. Trước hết, các anh em tinh thần muốn biết ngay điều họ nên làm và có thể làm một cách cụ thể. Các câu hỏi của họ là điều dễ hiểu và chính đáng. Tuy nhiên, không hề có những công thức đơn giản; ta cũng không thể đưa ra một số giải pháp nào đó trong Giáo Hội với một chiếc búa tạ, bất luận bằng cách dùng thế giá riêng của ta hay bằng cách chấp nhận tư thế đe dọa. Cần đưa ra nhiều bước khác nhau ngõ hầu đạt tới một giải pháp nhất trí được ưa chuộng hơn.

Bước thứ nhất, nói chung, bao gồm việc, một lần nữa, trở nên có khả năng nói về các vấn đề tính dục, hôn nhân, và gia đình, và tìm được lối thoát ra ngoài tính cứng ngắc của sự im lặng thúc thủ dưới ánh sáng một tình huống nhất định nào đó. Nguyên vấn đề điều gì được phép điều gì bị cấm mà thôi không giúp ích chi được nữa. Các vấn đề hôn nhân và gia đình, trong đó, vấn đề người ly dị và tái hôn chỉ là một vấn đề, dù là vấn đề cấp bách, thuộc một ngữ cảnh bao quát hơn đó là vấn đề làm thế nào người ta có thể tìm được hạnh phúc và thành toàn trong đời họ. Bàn về hồng phúc tính dục, từng được Đấng Tạo Hóa ban tặng và ủy thác cho con người nhân bản, một cách có trách nhiệm và thoả đáng, trong yếu tính, vốn thuộc đề tài này. Tính dục được giả thiết phải dẫn ta ra khỏi tính chật hẹp và tính cô độc của chủ nghĩa duy cá nhân chỉ biết nhìn vào trong và dẫn ta tới cái Anh/cái Em của một hữu thể nhân bản khác và tới cái Chúng Tôi của cộng đồng nhân bản. Tách biệt tính dục khỏi các mối liên hệ nhân bản toàn diện đó và rút gọn nó vào việc làm tình mà thôi không dẫn ta tới sự giải thoát được tán dương nhiều như vừa nói, mà đúng hơn, dẫn ta tới việc tầm thường hóa và thương mại hóa tính dục. Cái chết của tình yêu gợi dục và sự lão hóa của xã hội Tây Phương là các hậu quả. Hôn nhân và gia đình là những ổ kháng cự cuối cùng chống lại việc kinh tế hóa cách tính toán lạnh lùng và việc máy móc hóa cuộc sống. Ta có mọi lý do để hỗ trợ chính nghĩa hôn nhân và cuộc sống gia đình hết khả năng ta và, trên hết, để hỗ trợ và khuyến khích người trẻ tiến theo con đường này.

Bước thứ hai bên trong Giáo Hội là một nền linh đạo mục vụ đổi mới biết loại bỏ quan điểm duy pháp lý và một chủ nghĩa nghiêm khắc phi Kitô Giáo chuyên đặt những gánh nặng không ai chịu nổi lên vai người ta, những gánh nặng mà các giáo sĩ vốn không muốn vác và cũng không thể chịu đựng được (xem Mt 23:4). Với nguyên tắc oikonomia của họ, các Giáo Hội Đông Phương đã khai triển được một phương cách vượt trên cả nghiêm khắc lẫn lỏng lẻo, mà từ đó, ta có thể học hỏi theo đại kết. Ở Tây Phương, ta biết nguyên tắc epikeia, tức công bình trong các trường hợp cá thể, mà theo Thánh Tôma Aquinô, vốn là sự chính trực cao hơn. Oikonomia không chủ yếu là một vấn đề thuộc nguyên tắc giáo luật, mà đúng hơn, là một thái độ tâm linh và mục vụ căn bản trong việc áp dụng tin mừng như một người cha tốt lành trong gia đình, được hiểu như một oikonomos (nhà kinh bang tế thế), hoạt động phù hợp với mô thức nhiệm cụ cứu rỗi của Thiên Chúa. Trong nhiệm cục cứu rỗi của Người, Thiên Chúa đi qua rất nhiều bước với dân của Người và từng đi một con đường thật dài với Giáo Hội trong Chúa Thánh Thần. Cũng tương tự như thế, Giáo Hội được giả thiết đồng hành với dân khi họ càng ngày càng tiến tới mục tiêu đời họ và trong diễn trình này, Giáo Hội nên ý thức việc này: cả các mục tử cũng đang trên đường lữ thứ và rất thường đi sai, phải bắt đầu lại như mới. Và, nhờ lòng thương xót khôn cùng của Thiên Chúa, các vị vẫn có thể bắt đầu đi bắt đầu lại không ngừng.

Oikonomia không phải là con đường rẻ tiền hay một lối thoát đầy mưu chước. Như Martin Luther từng phát biểu chính xác trong luận đề đầu tiên của Chín Mươi Lăm Luận Đề của ông năm 1517, cần phải coi trọng sự kiện này: toàn bộ cuộc sống Kitô hữu là một cuộc sống thống hối, nghĩa là, một cuộc sống không ngừng suy đi nghĩ lại, tái định hướng như mới (metanoia). Việc ta hay quên điều đó và thường lãng quên bí tích thống hối, cũng là bí tích thương xót, một cách có tội, là một trong những vết thương sâu nhất của Kitô Giáo đương thời. Cho nên, con đường thống hối (via paenitentialis) không chỉ là một điều dành cho người ly dị và tái hôn, mà dành cho mọi Kitô hữu. Chỉ khi nào ta bắt đầu nền chăm sóc mục vụ theo nghĩa sâu sắc và toàn diện như thế này, ta mới thực hiện được tiến bộ, từng bước một, trong những vấn đề còn đang tồn đọng.

Bước thứ ba bao gồm việc cả định chế thực thi các suy nghĩ nhân học và tâm linh này. Bí tích hôn nhân cũng như bí tích Thánh Thể không phải là việc tư riêng, cá nhân; chúng có đặc tính cộng đoàn và công cộng và do đó, có khía cạnh pháp chế. Nghi thức hôn phối của Giáo Hội giả thiết phải được cả cộng đoàn, cụ thể là giáo xứ, chia sẻ, trong khi nghi thức hôn phối dân sự đặt dưới sự che chở của hiến pháp và hệ thống luật pháp của quốc gia. Nhìn dưới ngữ cảnh rộng lớn hơn này, các thủ tục giáo luật về hôn nhân cần được tái định hướng về tâm linh và mục vụ. Ngày nay, hiện đã có sự nhất trí rộng dài cho rằng các thủ tục đơn phương về hành chánh và pháp chế, theo nguyên tắc phải hành động theo ý kiến chắc hơn (tutiorism) (1), không thể tạo công bằng cho sự lành mạnh và phúc lợi của người ta và các hoàn cảnh sống cụ thể và thường là phức tạp của họ. Đây không phải là lời yêu cầu nới lỏng hơn nữa và mở rộng việc tuyên bố hôn nhân vô hiệu (annulment), nhưng là lời yêu cầu đơn giản hóa và tăng tốc các thủ tục này và, trên hết, là lời yêu cầu lồng chúng vào các cuộc đàm luận cũng như huấn đạo mục vụ và tâm linh, trong tinh thần Đấng Chăn Chiên Lành và Người Samaritanô Nhân Hậu.

Trên hết, bước thứ tư đang được tranh luận một cách nóng bỏng liên quan tới các hoàn cảnh trong đó, việc tuyên bố cuộc hôn nhân đầu vô hiệu không thể có được hoặc, như trong nhiều trường hợp, việc ấy không được ước muốn vì không trung thực. Giáo Hội nên khuyến khích, đồng hành, và, dù gì, cũng phải hỗ trợ những người, sau cuộc ly dị dân sự, quyết định đi theo con đường khó khăn khác với việc ở độc thân. Các hình thức mới của giáo hội tiểu gia có thể là những trợ giúp vĩ đại ở đây để cung cấp cho họ một căn nhà thiêng liêng mới mẻ. Con đường cho phép người ly dị và sau đó tái hôn theo dân luật được chịu các bí tích thống hối rồi Thánh Thể trong các hoàn cảnh cụ thể, sau một thời kỳ tái định hướng, đang được xem sét trong một số trường hợp cá biệt với sự thuận tình hay im lặng chấp thuận của giám mục. Sự không nhất quán này giữa qui định chính thức và thực hành im lặng tại địa phương không phải là một tình huống tốt đẹp. Ngay cả khi khoa giải nghi học không thể áp dụng hay không được ước muốn, ta cũng nên có những tiêu chuẩn có tính bó buộc và được công khai nhận diện. Tôi đã cố gắng đưa ra giải pháp này trong bài thuyết trình của tôi. Dĩ nhiên, cố gắng này có thể được cải thiện. Tuy nhiên, hy vọng của rất nhiều người sẽ được biện minh khi Thượng Hội Đồng sắp tới, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn và sau khi cân nhắc mọi quan điểm, có thể chỉ ra một con đường tốt đẹp để mọi người có thể chấp nhận (2).

Ghi Chú

1. Bản tiếng Anh cho hay Tutiorism là một chủ trương đạo đức học cho rằng trong các trường hợp không có sự chắc chắn tinh thần (moral certitude), thì nên chọn con đường “an toàn hơn” hay nghiêm nhặt hơn cho hành động luân lý.

2. Một trợ cụ rất khôn ngoan về tâm linh và mục vụ, theo đường hướng Thánh Anphôngsô đệ Liguori, thánh quan thầy của nền thần học luân lý, là cuốn sách nhỏ dễ đọc của Bernard Haring: No Way Out? Pastoral Care of the Divorced and Remarried (Middlegreen, England: St Paul Publications, 1990)
 
VietCatholic TV
Giáo Hội Năm Châu 30/07/2018: Giáo hội đang bị bách hại tại Nicaragua
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:06 29/07/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Đức Hồng Y Brenes nói Giáo hội đang bị bách hại tại Nicaragua

Chủ tịch Hội đồng Giám mục Nicaragua tuyên bố rằng nhà cầm quyền đang bách hại Giáo hội tại quốc gia này.

Các Giám mục Nicaragua đang họp để quyết định xem liệu các ngài có nên tiếp tục tham gia vào tiến trình đối thoại hòa giải quốc gia trong bối cảnh khủng hoảng chính trị và xã hội ngày càng tồi tệ hơn.

Trong một tuyên bố mạnh mẽ vào hôm Chúa Nhật, vị Hồng Y của Nicaragua cho biết Giáo hội đang bị chế độ của Tổng thống Daniel Ortega bách hại.

Đức Hồng Y Leopoldo Brenes Solorzano, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Nicaragua và cũng là chủ tịch Ủy Ban Đối Thoại Quốc Gia, nói rằng Giáo Hội hiện đang bị bách hại ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là tại Nicaragua.

Lời lên án mạnh mẽ của ngài xảy ra đúng vào ngày toàn bộ lục địa Mỹ Latinh hiệp nhất trong lời cầu nguyện cho hòa bình ở Nicaragua, là nơi bất ổn chính trị và bạo lực đã gây ra cái chết cho hơn 360 người kể từ giữa tháng Tư và dẫn đến việc giam giữ rất nhiều người.

Lưu ý rằng “Giáo hội luôn bị bách hại” và do đó “chúng tôi không xa lạ” với thực tế này, Đức Hồng Y Brenes nói rằng ngài và các giám mục tại Nicaragua hiện đang tranh luận xem liệu có nên tiếp tục tham gia vào tiến trình đối thoại quốc gia hay không.

Cuộc khủng hoảng hiện nay tại Nicaragua bắt đầu từ những cuộc biểu tình ôn hòa của các sinh viên nhằm phản đối việc cắt giảm các phúc lợi xã hội đã gây ra những cuộc đụng độ với lực lượng cảnh sát sau khi cảnh sát bắn đạn thật trực tiếp vào đám đông. Bọn cầm quyền đã huy động thêm côn đồ tấn công những người biểu tình. Ít nhất đã xảy ra bảy cuộc bao vây các nhà thờ và một số vụ tấn công hành hung các giám mục và đại diện Giáo Hội.

2. Đức Giáo Hoàng lên tiếng về tình hình tại Nicaragua

Đức Thánh Cha Phanxicô đã bày tỏ mối quan ngại của ngài đối với tình hình đang ngày càng trở nên nguy hiểm tại Nicaragua và hiệp nhất với các giám mục của quốc gia này đối với mối quan tâm của các ngài.

Phát biểu sau khi đọc kinh Truyền Tin hôm Chúa Nhật, Đức Thánh Cha kêu gọi chấm dứt mọi hình thức bạo lực và xin các tín hữu hiện diện cầu nguyện cho các nạn nhân và gia đình của họ.

Các cuộc biểu tình chống lại Ortega và vợ ông, Phó Tổng thống Rosario Murillo, bắt đầu vào ngày 18 tháng 4. Bọn cầm quyền mưu toan cắt giảm an sinh xã hội để có tiền trang trải cho tình trạng tham nhũng tràn lan. Từ những cuộc biểu tình ôn hòa chống cắt giảm an sinh xã hội, người dân Nicaragua đã quay sang kêu gọi Tổng thống từ chức, sau 39 năm cai trị quốc gia này.

Lúc ban đầu Ortega lợi dụng các Giám Mục quốc gia này để ve vãn các thành phần đối lập. Y không ngớt lời ca tụng các Giám Mục đã giúp làm trung gian trong các cuộc đối thoại hòa giải quốc gia.

Tuy nhiên, các cuộc tấn công chống lại Giáo Hội Công Giáo đã lập tức bùng lên sau khi các Giám Mục yêu cầu Ortega tổ chức sớm các cuộc bầu cử vào tháng 3 năm 2019 nhằm chấm dứt cuộc khủng hoảng chính trị và xã hội. Theo dự trù mãi đến năm 2021 mới có các cuộc bầu cử.

Trên đài truyền hình quốc gia, Ortega phỉ báng các Giám Mục nước này và gọi các ngài là “bọn hoạch định mưu toan đảo chính”.

Đức Thánh Cha Phanxicô cho biết ngài đang theo dõi chặt chẽ tình hình và cầu nguyện cho tất cả người dân Nicaragua. Không phải bây giờ, khi tình hình đã trở nên quá bi thảm, Đức Thánh Cha mới lên tiếng về vấn đề này. Thật thế, ngày 3 tháng Sáu đã đưa ra lời kêu gọi chấm dứt bạo lực.

Đức Thánh Cha nói Giáo hội luôn ủng hộ đối thoại nhưng “đối thoại đòi hỏi sự tham gia tích cực cho tự do và, trên tất cả, cho cuộc sống.”

Người Công Giáo ở Mỹ Latinh và trên toàn thế giới đã tổ chức Ngày Cầu Nguyện vào hôm Chúa Nhật vừa qua như một dấu chỉ liên đới với các nạn nhân của bạo lực chính trị ở Nicaragua.

Đức Cha Silvio José Báez, Giám Mục Phụ Tá của Managua, viết trên Twitter: “Giáo Hội Công Giáo Nicaragua sẽ vẫn ở bên cạnh dân chúng, bởi vì Chúa Giêsu luôn ở bên những người đau khổ.”

3. Đức Thánh Cha gửi lời chia buồn đến các nạn nhân vụ sụp đổ đập thủy điện ở Lào

Trong một bức điện gởi đến Giáo hội và chính quyền dân sự tại Lào, Đức Thánh Cha Phanxicô bày tỏ nỗi buồn của ngài về sự mất mát nhiều nhân mạng và những hậu quả bi đát do lũ lụt gây ra sau khi một đập thủy điện bị sụp đổ vào hôm thứ Ba 24 tháng 7.

Hàng trăm người đang bị mất tích và người ta lo sợ rằng họ đã chết sau khi đập thủy điện tại huyện San Sai của tỉnh Attapeu sụp đổ vào hôm thứ Ba, gây ra một trận lũ lớn cuốn trôi nhiều căn nhà. Theo Thông tấn xã Lào, thảm họa này đã khiến hơn 6,600 người mất nhà cửa.

Trong một bức điện tín do Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh ký thay mặt ngài, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bày tỏ “tình liên đới chân thành của ngài với tất cả những người bị ảnh hưởng bởi thảm họa này”.

Ngài cầu nguyện “đặc biệt là cho những người đã chết, và ơn chữa lành cho những người bị thương và ơn an ủi cho tất cả những người đang phải đau buồn vì sự mất mát những người thân yêu của họ và những ai đang phải lo sợ cho mạng sống những người vẫn còn mất tích.”

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng ca ngợi các nỗ lực cứu giúp những người bị nạn của “các nhà chức trách dân sự và tất cả những người tham gia vào cuộc tìm kiếm và giải cứu khi họ hỗ trợ cho các nạn nhân của bi kịch này.”

Một công ty của Nam Hàn phụ trách việc xây đập này nói với hãng tin Reuters rằng mưa lớn và lũ lụt đã gây ra sự sụp đổ này.

4. Đặc sứ của Đức Thánh Cha tại Medjugorje bắt đầu sứ vụ

Đức Cha Henryk Hoser, Tổng Giám Mục về hưu của Warszawa-Praga, Ba Lan, đã bắt đầu sứ vụ của ngài trong tư cách Thanh tra Tông Tòa tại giáo xứ Thánh Giacôbê Tông Đồ ở Medjugorje với thánh lễ tối Chúa Nhật vừa qua.

Sứ vụ thứ nhất của Đức Tổng Giám Mục Henryk Hoser

Thông báo của Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết: “Sứ mạng của vị thanh tra tông tòa là nhằm mục đích đảm bảo một sự tháp tùng ổn định và liên tục cho cộng đồng giáo xứ Medjugorje và cho các tín hữu hành hương tại đó, là những người có những nhu cầu cần được chú ý đặc biệt”.

Ông Greg Burke, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, nói với các nhà báo rằng Đức Tổng Giám Mục Hoser “sẽ thường trú tại Medjugorje” và nhiệm vụ của ngài không liên quan đến việc điều tra tính xác thực của các cuộc hiện ra đã được báo cáo.

Sứ mệnh của Đức Tổng Giám Mục Hoser “thuần túy là mục vụ và không liên quan đến tín lý”, ông Burke nói.

Tháng 2 năm 2017, vị Tổng Giám Mục Ba Lan đã được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm đặc sứ của ngài để nghiên cứu tình hình mục vụ ở Medjugorje.

Tại một cuộc họp báo sau chuyến viếng thăm đầu tiên của mình, Đức Tổng Giám Mục Hoser nói rằng mặc dù ngài không có thẩm quyền hoặc chuyên môn để thảo luận về tính xác thực của các tuyên bố cho là Đức Mẹ đã hiện ra tại Medjugorje, ngài nhận thấy rõ ràng là “có bầu khí thiêng liêng đặc biệt” ở Medjugorje.

“Phép lạ lớn nhất của Medjugorje là việc xưng tội” của hàng trăm người mỗi ngày, Đức Tổng Giám Mục Hoser nói với các phóng viên vào tháng Tư năm 2017.

Năm 1981, sáu người trẻ tuyên bố rằng Đức Maria đã hiện ra với họ. Một số trong số sáu người nói rằng Đức Maria vẫn hiện ra với họ và đưa ra các sứ điệp mỗi ngày, trong khi những người khác nói rằng họ chỉ nhìn thấy Đức Mẹ mỗi năm một lần.

Đức Thánh Cha Phanxicô thừa nhận rằng những người hành hương đến Medjugorje xứng đáng được chăm sóc và hỗ trợ về tinh thần, nhưng ngài cũng bày tỏ nghi ngờ về những tuyên bố cho rằng Đức Maria vẫn hiện ra với các thị nhân và đưa ra các sứ điệp mỗi ngày.

Sứ vụ thứ hai

Đức Thánh Cha Phanxicô đã tái bổ nhiệm Đức Tổng Giám Mục Hoser lần thứ hai trong tư cách là “thanh tra tông tòa đặc biệt cho giáo xứ Medjugorje” vào ngày 31 tháng 5 năm 2018. Theo tuyên bố của Văn phòng Báo chí Tòa Thánh, nhiệm vụ sẽ kéo dài trong một khoảng thời gian không được xác định và ad nutum Sanctae (nghĩa là cho đến khi có lệnh mới của Tòa Thánh).

Một lần nữa, Đức Tổng Giám Mục Hoser sẽ thực hiện “một sứ vụ mục vụ đặc biệt” liên tục với nhiệm vụ đầu tiên của ngài đã kết thúc gần đây. Văn phòng Báo chí của Tòa Thánh lập lại rằng “Sứ mạng của vị thanh tra tông tòa là nhằm mục đích đảm bảo một sự tháp tùng ổn định và liên tục cho cộng đồng giáo xứ Medjugorje và cho các tín hữu hành hương tại đó, là những người có những nhu cầu cần được chú ý đặc biệt”.

5. Đức Thánh Cha đau buồn vì vụ hỏa hoạn kinh hoàng tại Hy Lạp

Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một thông điệp bày tỏ sự gần gũi và lời cầu nguyện của ngài cho những người bị ảnh hưởng bởi trận hỏa hoạn kinh hoàng tại các khu vực quanh thủ đô Athens (Nhã Điển) của Hy Lạp, trong đó có ít nhất 60 người bị thiệt mạng.

Ngọn lửa kinh hoàng xảy ra vào hôm thứ Hai 23 tháng 7 và vẫn còn hoành hoành dữ dội trong ngày thứ Ba,

Đức Thánh Cha Phanxicô đã bày tỏ tình liên đới và nói rằng ngài đang cầu nguyện cho các nạn nhân và tất cả những người bị ảnh hưởng bởi vụ hỏa hoạn bi thảm này tại miền Attica. Người ta đã tìm thấy 60 thi thể. Con số thương vong có thể còn lên cao hơn rất nhiều.

Trong một bức điện tín được Đức Hồng Y Hồng Y Pietro Parolin, gởi thay mặt cho ngài, Đức Thánh Cha Phanxicô nói ngài rất buồn khi biết tin về những thiệt hại nhân mạng và con số đông đảo những người bị thương trong vụ hỏa hoạn.

Nơi bị thiệt hại nặng nhất là Mati, một địa điểm du lịch nổi tiếng của Hy Lạp. Sáng thứ Ba 24 tháng 7, ít nhất 26 thi thể gồm đa số là phụ nữ và trẻ em đã được tìm thấy. Dường như họ đã cố chạy ra biển nhưng ngọn lửa kinh hoàng đã chụp xuống họ. Thi thể của 26 người này trong thư thế ôm cứng lấy nhau trước khi chết.

Ngọn lửa xuất phát từ một cánh rừng trên một ngọn đồi và được gió mạnh đến cấp 9 thổi đi nên lây lan rất nhanh. Ít nhất 130 người bị thương và hàng chục người trong số họ đang trong tình trạng nguy kịch. Hàng trăm ngàn ngôi nhà bị thiêu rụi cùng với hàng ngàn xe hơi bị bỏ lại trên đường khi các tài xế lao nhanh ra biển để sống sót. Tính chất bất ngờ và kinh hoàng của trận hỏa hoạn đã khiến nhiều nhà bình luận liên hệ biến cố này với thảm họa được mô tả trong Kinh Thánh.

Khoảng 700 người, trong đó có nhiều du khách, đã được lực lượng tuần duyên của Hải Quân Hy Lạp cứu thoát.

Đức Thánh Cha bày tỏ tình liên đới chân thành với tất cả những ai bị ảnh hưởng bởi bi kịch này và cho biết ngài đang cầu nguyện đặc biệt cho linh hồn những người quá cố và ơn chữa lành tinh thần và thể xác cho những người bị thương.

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã lên tiếng ca ngợi các cơ quan dân sự và các nhân viên cấp cứu khi họ anh dũng giúp đỡ các nạn nhân của thảm họa này, và trên hết ngài cầu nguyện xin Chúa gìn giữ họ, tăng cường sức mạnh và an ủi họ.

6. Đức Thánh Cha nói: Chúa Giêsu thấu triệt những nhu cầu tiềm ẩn của chúng ta.

Trong buổi đọc kinh Truyền tin trưa Chúa Nhật, Đức Thánh Cha nói: Chúa Giêsu thấu triệt những nhu cầu tiềm ẩn của chúng ta.

Trong bài suy ngẫm về Tin Mừng của ngày Chúa Nhật tuần trước, Đức Thánh Cha Hoàng Phanxicô trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu nhìn tha nhân bằng con mắt của trái tim, và cách nhìn đó trở thành mô hình của tình yêu phục vụ.

Trong Phúc Âm Thánh Marcô tuần này, Đức Thánh Cha Phanxicô mô tả các Tồng Đồ sau một cuộc truyền giáo đầu tiên trở về “các ông thật hào hứng dù có mệt mỏi” và Chúa Giêsu thúc giục họ: “Hãy tìm đến một nơi yên vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Nhưng thật không may, đám đông đoán biết nên đã đến đó trước khi các môn đệ và Chúa Giêsu tới.

Điều tương tự như thế cũng xảy ra cho chúng ta ngày nay. Đức Thánh Cha nói: “Đôi khi chúng ta không còn nhận ra các dự án của chúng ta, vì trong trường hợp khẩn cấp có thể làm rối loạn các dự liệu của chúng ta, đòi hỏi chúng ta phải linh động và sẵn sàng hy sinh vì nhu cầu của tha nhân.” Đó là khi chúng ta được kêu gọi bắt chước những gì Chúa Giêsu đã làm: “lên tới bờ Ngài thấy đám đông thì chạnh lòng thương xót họ, vì họ giống như chiên không người chăn chiên, và Ngài bắt đầu giảng dậy họ không màng tới thời gian là gì nữa… “(Mc 6:34).

Đức Thánh Cha tập trung vào ba động từ mà thánh sử Marcô sử dụng để mô tả cảnh này, một trong những động từ này được Đức Thánh Cha so với “cái máy chụp đôi mắt của Thần Linh Chúa”. Động từ: “thấy mà chạnh lòng thương mà giảng dạy. Chúng ta có thể gọi đó là những động từ hành động của một người chủ chăn”, Đức Thánh Cha nói thêm. “Cái nhìn của Chúa Giêsu không phải là một cái nhìn trung lập hoặc tệ hơn, lạnh lùng và tách rời, bởi vì Chúa Giêsu luôn nhìn bằng ánh mắt của trái tim”. Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp: “Trái tim của Chúa dịu dàng và đầy lòng từ bi, biết nắm bắt những nhu cầu ẩn giấu nhất của con người”.

Thay vì thực hiện một phép lạ, như chúng ta mong đợi, Đức Thánh Cha nói, Chúa Giêsu bắt đầu dạy dỗ dân chúng. “Đây là bánh mà Đấng Mết-si-a hiến dâng cho đám đông đang đói khát: bánh của Lời. “Tất cả chúng ta đều cần tới Lời sự thật, để hướng dẫn chúng ta và soi dẫn chúng ta trên con đường phải đi. Chính Đấng Cứu Thế là chân lý, chúng ta không thể tìm ra định hướng đúng đắn cho cuộc sống. Khi chúng ta lìa xa Chúa và rời bỏ tình yêu của Ngài, chúng ta sẽ đánh mất đi chính mình và sự tồn vong sẽ biến thành thất vọng và bất mãn “.

Đức Thánh Cha Phanxicô kết luận: “Đức Giêsu đã tự hiến Mình trở thành món quà cho người thế”, “sự tự hiến này trở thành một mẫu gương cho tình yêu và cho sự phục vụ của mỗi người chúng ta”.

7. Đức Phanxicô và Ông Trump cùng có vấn đề với Putin, tuy rất khác nhau.

Trong một bài phân tích đăng trên tạp chí Crux ngày 22 tháng Bẩy, chủ bút John L. Allen Jr. cho rằng ông Trump, trong suốt tuần qua, đã cố gắng hết sức để biện minh cho cuộc gặp gỡ giữa ông và tổng thống Nga, Vladimir Putin, sau khi ông bị nặng nề phê phán gần như đã hoàn toàn bác bỏ việc Nga can thiệp vào cuộc tổng tuyển cử của Hoa Kỳ năm 2016.

Nhưng ông Trump không biện minh theo lối bình thường mà theo lối của ông, cho rằng “Thượng đỉnh với Nga là một thành công lớn, ngoại trừ đối với Truyền Thông Tin Giả”.

Nhưng theo Allen, trong khi ông Trump lao đao biện minh cho mối liên hệ lạ đời với Putin, thì điều đáng nhắc lại là ông không phải là nhà lãnh đạo thế giới hàng đầu duy nhất gặp điều người ta vẫn gọi là “nan đề Nga”. Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng gặp nan đề này, và mặc dù hiện thân cho một quan điểm và nghị trình rất khác với nhà lãnh đạo Hoa Kỳ, ta thấy ngài cũng gần như đang tới một điểm ngoặt quyết định trong các tương tác với Nga.

Ngay từ khởi đầu triều giáo hoàng, nhiệm kỳ của Đức Phanxicô xem ra đã đầy hứa hẹn về phương diện đại kết, trong đó, dĩ nhiên có Nga. Cuối cùng, thì Giáo Hội Công Giáo đã có được một nhà lãnh đạo xuất thân từ thế giới đang phát triển không mang theo mình gánh nặng hận thù hàng thế kỷ giữa Đông và Tây Âu, và, gần đây hơn, các căng thẳng Chiến Tranh Lạnh giữa ảnh hưởng Xô Viết cũ và liên minh Đại Tây Dương.

Vị tân giáo hoàng cũng đem tới một thế giới quan giúp ngài hành động ở bên ngoài các khuôn khổ ngoại giao và địa chính trị thông thường, phản ảnh rất sớm lên tính đồng bộ giữa Mạc Tư Khoa và Rôma về Syria. Cuối năm 2013, Putin từng cám ơn Đức Phanxicô trong việc giúp ngăn chặn cuộc tấn công của Tây Phương chống Assad ở Syria, và nói chung, Vatican chia sẻ chẩn đoán của Mạc Tư Khoa cho rằng các cố gắng nhằm lật đổ nhà lãnh đạo Syria là một sai lầm.

Đàng khác, Putin và các liên minh Chính Thống Giáo rất được khích lệ vào năm 2014, khi Đức Phanxicô và các cộng sự viên của ngài không quá nặng nề đối với Nga nhân việc họ xâm nhập miền Đông Ukraine. Có lúc, ngài đã làm Giáo Hội Công Giáo theo nghi lễ Hy Lạp ở Ukraine của chính ngài nổi giận khi mô tả cuộc tranh chấp trong nước là “huynh đệ tương tàn” tức việc nội bộ chứ không do chủ trương gây hấn của Nga.

Điều ấy đã phá được giá băng giữa Mạc Tư Khoa và Rôma, mà cao điểm là cuộc họp thượng đỉnh chưa bao giờ có giữa Đức Phanxicô và Thượng Phụ Kirill tại Havana, Cuba, trên đường Đức Phanxicô công du Mễ Tây Cơ năm 2016. Tuyên bố chung của hai vị càng thổi thêm lửa vào nỗi giận của người Công Giáo hy lễ Hy Lạp khi gọi họ là “qui hiệp” (uniates), một hạn từ hạ giá đã bị bỏ từ lâu trong hầu hết ngôn từ đại kết chính thức.

Tuyên bố chung cũng cố ý tránh bất cứ chỉ trích nào đối với chính sách của Nga tại Ukraine, hay nhắc nhớ xa gần gì tới nỗi đau đớn của các người Công Giáo Ukraine thời Xô Viết.

Tất cả các điều trên vốn đem đến cho Đức Phanxicô nhiều lời phê phán. Các nhà phê bình kết án ngài và Tòa Thánh đã quá “chính xác về đại kết”; họ nhấn mạnh rằng ngài nên bộc trực hơn nữa về Ukraine, nên thách thức người Chính Thống Giáo Nga để họ từ bỏ lòng thù hận đối với người Công Giáo nghi lễ Hy Lạp và các giáo hội Đông Phương nói chung.

8. Quan điểm của người Ukraine trong việc tách Chính Thống Giáo khỏi quỹ đạo của Mạc Tư Khoa

Người ta đang chờ xem phản ứng của Vatican sẽ ra sao sau việc Tòa Thượng Phụ Đại Kết Constantinople, mà theo truyền thống vốn là “thứ nhất trong số những người ngang hàng” trong thế giới Chính Thống, thừa nhận tính độc lập của giáo hội Chính Thống tại Ukraine, hiện nay, vốn không phải là thành phần của giáo hội Chính Thống Nga.

Các nhà lãnh đạo giáo hội độc lập Ukraine hy vọng sắc lệnh thừa nhận này được công bố trước ngày 28 tháng Bẩy, khi lễ kỷ niệm năm thứ 1,030 ngày liên hiệp Kievan Rus’ trở lại Kitô Giáo diễn ra. Nay thì rõ ràng nó sẽ chỉ được công bố vào tháng Tám, khi công đồng sắp tới của Tòa Thượng Phụ Đại Kết được triệu tập.

Người Chính Thống Ukraine tỏ ra tin tưởng vào kết quả cuối cùng, nhất là vì ước vọng độc lập được tổng thống Petro Poroshenko và quốc hội ủng hộ.

Dù Giáo Hội Công Giáo Ukraine không có lập trường chính thức nào về các việc nội bộ của người Chính Thống, nhưng ai cũng biết phần lớn người Công Giáo Ukraine ủng hộ cố gắng này, coi nó như một bước quan trọng hướng tới một Ukraine độc lập thực sự, không còn phải đợi chỉ thị từ Mạc Tư Khoa. Trên bình diện thực tiễn, các thành viên của các Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Hy Lạp và Chính Thống Ukraine cộng tác sâu xa trên rất nhiều chiến tuyến và đã có những cuộc đối thoại thần học lâu dài.

Tuy nhiên, người Chính Thống Nga vốn cảnh cáo sẽ có “ly giáo” cỡ năm 1056, nếu Constantinople dám nẩy cò và việc này xem ra đang dựng khung cho một tranh chấp lớn trong thế giới Chính Thống.