Ngày 14-11-2015
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
04:17 14/11/2015
62. CHỬI MẮNG ĐỂ CHỮA BỆNH
N2T

Một hôm, Hoa Đà chữa bệnh cho anh lính gác của huyện, sau khi chẩn mạch thì biết anh ta bị nội uất, chỉ cần cho anh ta nổi nóng lên một chặp thì bệnh sẽ hết, thế là cố ý nhận rất nhiều tài vật của anh ta, nhưng không kê toa thuốc trị liệu.
Chẳng bao lâu thì bỏ anh ta mà đi, còn viết để lại một bức thư chửi anh ta, quả nhiên anh lính gác rất giận dữ, kêu người đi giết Hoa Đà.
Đứa con của anh ta hiểu biết sự tình, liền ngấm ngầm bảo người đừng đuổi theo Hoa Đà, anh lính gác càng giận dữ đến cực điểm, lập tức mửa ra mấy lít máu, cơn bệnh lập tức được lành.
(Tam quốc chí)

Suy tư 62:
Chỉ có bác sĩ chuyên khoa mới biết rõ con bệnh của mình phải trị liệu như thế nào cho có hiệu quả, Hoa Đà là một vị lương y tài giỏi của Trung Quốc thời cổ.
Các linh mục Công Giáo cũng là những vị lương y tài giỏi chữa bệnh tâm hồn.
Có những tín hữu năm năm, mười năm, hai mươi năm và thậm chí mấy mươi năm chưa đi xưng tội, mặc dù họ vẫn giữ đạo, nghĩa là họ vẫn tham dự thánh lễ, đọc kinh sáng tối... Những tín hữu này thật sư đangỉ bị bệnh nội uất tâm hồn trầm trọng, bệnh nội uất của họ có thể là không bằng lòng ông cha sở của mình, có thể là mặc cảm khi đi xưng tội, có thể là quá kiêu ngạo, và cũng có thể là mất đức tin, vân vân và vân vân...
Đi xưng tội, tức là mình đi bác sĩ –cha giải tội- để xin ngài khám và chữa bệnh cho mình, việc tối cần thiết để được chữa lành bệnh, tức là để được tha tội, chính là đức tin, lòng khiêm tốn và thống hối của chúng ta.
Khiêm tốn nghe lời dạy bảo của cha giải tội.
Khiêm tốn thực hành việc đền tội.
Khiêm tốn để nhận ra mình là một tội nhân cần sự tha thứ của Thiên Chúa...
Tôi là linh mục của Đức Chúa Giê-su, tôi thay mặt Ngài để tha tội cho anh chị em tôi, do đó, chính tôi cũng cần phải có thái độ khiêm tốn trong khi cử hành bí tích hoà giải. Khiêm tốn để nhận ra mình là khí cụ bất toàn của Thiên Chúa, khiêm tốn để cảm thông và chấp nhận những tội lỗi của hối nhân, như Đức Chúa Ki-tô đã chấp nhận gánh vác tội lỗi của nhân loại và của tôi.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư

-------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi Tuần SỐNG Một Câu Lời Chúa (CN 33 TN)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
04:19 14/11/2015
Chúa Nhật 33 THƯỜNG NIÊN
N2T

Tin mừng : Mc 13, 24-32
“Thiên Chúa sẽ tập họp những kẻ được Người chọn tuyển chọn từ bốn phương”.


Anh chị em thân mến,
Gần cuối năm phụng vụ, Giáo Hội cho chúng ta nghe và suy niệm lại bản văn về ngày cuối cùng của nhân loại, hay nói cách khác, ngày Đức Chúa Giê-su xuống thế lần thứ hai và cũng là ngày Ngài tỏ sự công bình của Ngài cho nhân loại thấy qua việc phán xét người sống kẻ chết, để cho chúng ta suy gẫm và kiểm điểm lại đời sống của mình –cho đến hôm nay- có phù hợp với Tin mừng của Chúa hay không ?

Ngày 21.9.1999 miền trung và các vùng phụ cận trong đảo quốc Taiwan bị động đất nặng nề, một biến cố chưa từng xảy ra từ một trăm năm trở lại, mọi người đều kinh hoàng vì những tai hại và mất mát khủng khiếp, và rồi hình như ai cũng có cùng một ý nghĩ: tận thế đến nơi rồi...

Nhưng, như Đức Chúa Giê-su đã loan báo đó không phải là ngày tận thế, nhưng là báo trước ngày Con Người xuất hiện để phán xét, để thưởng công và luận tội. Càng có những điềm thiêng dấu lạ, càng có những hiện tượng khủng khiếp thì càng nhận ra tình thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại, bởi vì Thiên Chúa là tình yêu, cho nên trong những trận động đất khủng khiếp, trong những trận hoả hoạn tàn khốc và chiến tranh khốc liệt xảy đến, đều là lời của Thiên Chúa cảnh báo cho chúng ta: hãy làm hoà với Thiên Chúa, hãy ăn năn sám hối và thay đổi cuộc sống, nếu không, chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt cách khốn nạn hơn thế nữa. Thiên Chúa không hấp tấp khi trừng phạt, nhưng rất mau mắn trong việc tha thứ và chữa lành cho chúng ta là những con người luôn phản bội lại tình yêu của Ngài.

Con người thời nay biết dùng các phương tiện khoa học tối tân để đề phòng và chặn đứng các phi đạn từ trên không trung, con người cũng biết dùng khoa học để dự báo thời tiết và các công trình khác về vũ trụ cũng như về những việc có liên quan đến đời sống của con người... Nhưng nhân loại không chịu dùng trí khơn của mình để nhận ra ngày giờ của Thiên Chúa gần đến qua những biến cố xảy ra trên thế giới, đó chính là điều mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay vậy.

Anh chị em thân mến,
Ngày của Đức Chúa Giê-su đến trong vinh quang chưa xảy ra, nhưng trong cuộc sống hàng ngày, Ngài đã rất nhiều lần đến viếng thăm chúng ta qua người bạn lâu năm gặp lại; Ngài cũng đã nhiều lần đến nhờ chúng ta rộng tay giúp đỡ qua người nghèo khó; Ngài cũng đang rên đau đớn nơi các bệnh nhân đang cần sự an ủi của chúng ta...

Nếu hôm nay chúng ta biết dùng trí khơn và lòng bác ái để nhận ra Thiên Chúa qua các hoàn cảnh ấy, thì ngày quang lâm của Ngài, chúng ta nhất định sẽ không bị hổ ngươi bẻ mặt...

Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
----------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
04:21 14/11/2015
N2T

11. Nếu một người không hết lòng khiêm tốn tự hạ vì Chúa, thì nhất định không ở lâu trong tu viện được.

(sách Gương Chúa Giê-su)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"

---------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi tuần một ''Chuyện Rất Ngắn''
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
04:23 14/11/2015
134. LẮNG NGHE
Bởi vì mỗi năm cứ đến lễ giáng sinh hoặc phục sinh thì có nhiều tiếng phàn nàn của giáo dân là giáo xứ thì to lớn, có nhiều cha phó, mà chỉ có một thánh lễ, gây nhiều trở ngại thời giờ cũng như công việc làm ăn của giáo dân.
Họp ban hành giáo và đại diện các ban ngành, cha sở đưa ra một quyết định khiến mọi người bất ngờ nhưng rất vui, ngài nói:
- “Vì để cho tất cả thành phần giáo dân trong giáo xứ tham dự thánh lễ giáng sinh hoặc phục sinh đầy đủ, thay vì chỉ có một thánh lễ chung, thì kể từ lễ giáng sinh năm nay trở đi, giáo xứ chúng ta sẽ hồi phục lại các thánh lễ cho các giới…” Rồi ngài nói tiếp:
- “Các ca đoàn và các ông bà anh chị em có trách nhiệm trong các ban ngành tuy mệt, nhưng để phục vụ Chúa thì chúng ta nên hy sinh một chút, Chúa sẽ trả công…”
Trên khuôn mặt mọi người hiện lên niềm vui hạnh phúc !
--------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Thượng Hội Đồng về Gia Đình năm 2015, Tường Trình Sau Cùng, Phần I, chương 3
Vũ Văn An
00:39 14/11/2015
Chương III

Gia đình, việc bao hàm và xã hội

17. Một trong các nhiệm vụ nghiêm trọng và cấp thiết nhất đối với gia đình Kitô hữu là gìn giữ dây nối kết giữa các thế hệ với nhau để lưu truyền đức tin và các giá trị nền tảng của cuộc sống. Phần lớn các gia đình biểu lộ được lòng tôn kính đối với các vị cao niên, bảo bọc các ngài bằng tình âu yếm và coi các ngài như một ơn phúc. Ta phải đánh giá cao các hiệp hội và các phong trào gia đình nào biết làm việc vì lợi ích của người cao niên, trong cả hai chiều kích thiêng liêng và xã hội, nhất là cộng tác với các linh mục trong việc săn sóc các linh hồn. Trong một số bối cảnh, người cao niên được coi như một kho báu, bảo đảm cho sự ổn định, liên tục và ký ức của gia đình cũng như của xã hội. Trong các xã hội đã kỹ nghệ hóa cao, nơi các ngài đang gia tăng về con số trong khi sinh suất giảm, có nguy cơ các ngài bị coi như một gánh nặng. Đàng khác, sự săn sóc mà các ngài đòi hỏi thường gây ra nhiều thử thách cam go thực sự cho những kẻ thân yêu của các ngài. “Người cao niên cũng là những người đàn ông và đàn bà, những người cha và những người mẹ cùng đi một con đường trước chúng ta, trong cùng một căn nhà, trong cùng cuộc đấu tranh hàng ngày giành cuộc sống xứng đáng. Các ngài là những người đàn ông và đàn bà mà từ họ chúng ta đã lãnh nhận nhiều điều. Người cao niên không phải ai xa lạ. Chúng ta hết thẩy đều sẽ là người cao niên: chẳng chóng thì chầy, nhưng không thể nào tránh được, cho dù ta không hề nghĩ tới nó. Và nếu ta không đối xử tốt với người cao niên, người ta cũng sẽ đối xử với ta như thế” (Đức Phanxicô, Yết Kiến Chung, 4 tháng Ba, 2015).

18. Sự hiện diện của ông bà trong gia đình đáng được xem xét một cách đặc biệt. Các ngài tạo nên dây nối kết giữa các thế hệ, và bảo đảm sự quân bình tâm cảm (affective-psychic balance) nhờ việc lưu truyền các truyền thống và phong tục, các giá trị và nhân đức, trong đó, giới trẻ nhận ra gốc rễ đích thực của mình. Hơn nữa, ông bà thường trợ giúp con cái trong các vấn đề kinh tế, dưỡng dục và chuyển giao đức tin cho các cháu. Nhiều người chứng thực rằng họ thực sự nhờ ông bà mà được khai tâm vào đức tin Kitô Giáo. Như sách Huấn Ca nói “Đừng bỏ qua truyện các vị cao niên kể lại, vì chính các ngài đã học hỏi nơi tổ tiên mình; nhờ học với các ngài mà con có được sự hiểu biết, và khi cần, con biết đưa ra câu trả lời thích hợp” (8:9). Chúng ta hy vọng rằng trong gia đình, và trong sự nối tiếp các thế hệ, đức tin sẽ được thông truyền và gìn giữ như gia bảo quí giá dành cho các gia đình hạch nhân mới.

Góa bụa

19. Góa bụa là một kinh nghiệm đặc biệt khó khăn cho những người chọn và sống bậc sống hôn nhân như một hồng phúc. Ấy thế nhưng quan điểm đức tin giúp ta nhìn ra nhiều khả thể tích cực của bậc sống này. Từ lúc phải sống cảm nghiệm này, một số người biểu lộ được khả năng nhất quyết dồn hết mọi năng lực của mình cho các con và các cháu; và qua việc biểu lộ yêu thương này, họ khám phá ra một sứ mệnh mới trong việc dưỡng dục chúng. Sự trống vắng do cái chết của người phối ngẫu mang lại, theo một nghĩa nào đó, quả đã được trám đầy bằng tình âu yếm của gia đình họ, những người biết trân qúi cảnh góa bụa của họ, nhờ thế, giúp họ duy trì được ký ức quí hóa về chính cuộc hôn nhân của họ. Những người không thể trông nhờ sự hiện diện của gia đình để có thể hiến thân cho và để nhận được tình âu yếm và gần gũi từ họ, thì nên được hỗ trợ bằng một chăm sóc và lui tới đặc biệt, nhất là nếu họ rơi vào trạng thái thiếu thốn. Các người góa bụa có thể cử hành cuộc kết hợp mới theo bí tích, là cuộc kết hợp hoàn toàn không lấy mất điều gì khỏi cuộc hôn nhân trước đó (xem 1Cor 7:39). Ngay từ lúc ban đầu, và cùng với lịch sử tiếp diễn, Giáo Hội luôn biểu lộ một quan tâm đặc biệt đối với những người góa bụa (xem 1Tm. 5: 3-16), đến độ đã lập ra cả một “Dòng Góa Bụa”, một dòng mà ngày nay thiết nghĩ rất nên được tái lập.

Giai đoạn cuối đời và sự thương tiếc trong gia đình

20. Bệnh hoạn, tai nạn và tuổi già dẫn tới cái chết luôn có những vang dội đối với toàn bộ cuộc sống gia đình. Kinh nghiệm thương tiếc đặc biệt khiến ta tan nát cõi lòng khi liên quan tới cái chết của con cái hay người trẻ trong gia đình. Kinh nghiệm đau lòng này đòi phải có một chăm sóc mục vụ riêng, thậm chí có sự can dự của cả cộng đồng Kitô hữu. Ngày nay, việc đánh giá cao giai đoạn cuối đời càng cần thiết hơn bao giờ hết, khi người ta bị cám dỗ muốn dùng mọi cách loại bỏ giây phút lâm chung. Sự yếu đuối và lệ thuộc của người cao niên đang bị cái lợi hoàn toàn về kinh tế khai thác một cách bất chính.

Không biết bao gia đình đang dạy chúng ta rằng chúng ta có thể đối diện với giai đoạn cuối cùng của sự sống bằng một cảm thức mình đã chu toàn và nay có thể hòa nhập trọn cuộc hiện sinh của mình vào mầu nhiệm vượt qua. Đa số người cao niên đang được đón tiếp vào các cơ sở của Giáo Hội nơi họ có thể sống trong một bầu không khí thanh thản và giống như ở gia đình về cả mặt vật chất lẫn tinh thần. An tử và tự sát có trợ giúp đặt ra nhiều đe dọa trầm trọng cho các gia đình khắp thế giới. Tại nhiều quốc gia, việc thực hành này nay đã thành hợp pháp. Trong khi cực lực phản đối việc này, Giáo Hội cảm thấy có bổn phận phải giúp đỡ các gia đình đang chăm sóc người cao niên và các thành viên yếu ớt của họ.

Những người có nhu cầu đặc biệt

21. Điều cần là phải chăm sóc đặc biệt các gia đình có các thành viên khuyết tật; việc khuyết tật vốn phá vỡ cuộc sống này đem lại một thách đố, sâu xa và bất ngờ, phá vỡ sự cân bằng, các ước nguyện và hoài mong. Điều này gây ra nhiều cảm xúc và quyết định tương phản nhau đến độ khó mà giải quyết và lo liệu, đồng thời tạo ra nhiều bổn phận to lớn, những khẩn trương và trách nhiệm mới mẻ. Hình ảnh gia đình với trọn chu kỳ sống của nó bị nhiễu loạn mạnh mẽ. Những gia đình nào biết yêu thương chấp nhận một đứa con khuyết tật đáng được ta hết lời ca ngợi. Họ đem lại cho Giáo Hội và xã hội một chứng tá quí giá về lòng trung thành đối với ơn phúc sự sống. Cùng với cộng đồng Kitô hữu, gia đình sẽ khám phá ra nhiều cử chỉ và ngôn từ mới, những cách hiểu và nhận diện mới, trong hành trình chào đón và chăm sóc mầu nhiệm yếu đuối mỏng manh. Người khuyết tật đem lại cho gia đình một ơn phúc và một dịp may để phát triển yêu thương, giúp đỡ nhau và hợp nhất với nhau. Giáo Hội, vốn là gia đình của Thiên Chúa, mong được trở thành căn nhà chào đón các gia đình có con em khuyết tật (xem Đức Gioan Phaolô II, Bài giảng lễ dịp kỷ niệm các cộng đồng có người khuyết tật, 3 tháng 12, năm 2000). Giáo Hội giúp nâng đỡ mối liên hệ của họ và việc dưỡng dục trong gia đình, và đề ra cho họ nhiều cách tham dự vào đời sống phụng vụ của cộng đồng. Đối với những người khuyết tật thuộc đủ loại cảm thấy mình bị bỏ rơi và cô đơn, các định chế chào đón của Giáo Hội thường đã trở thành gia đình riêng cho họ. Với những định chế này, Thượng Hội Đồng xin bầy tỏ lòng biết ơn nồng hậu và đánh giá sâu xa của mình. Một diễn trình tháp nhập như thế sẽ khó khăn hơn trong các xã hội vẫn còn nhiều định kiến và thiên kiến, dù đã được lý thuyết hóa bằng những hạn từ ưu sinh. Một cách tương phản, nhiều gia đình, cộng đồng và phong trào trong Giáo Hội đã phát hiện và cử hành nhiều hồng phúc của Thiên Chúa nơi những người có nhu cầu đặc biệt này, nhất là khả năng truyền đạt độc đáo và thuộc về của họ. Giáo Hội đặc biệt lưu ý tới những người khuyết tật sống lâu hơn cha mẹ và gia đình mở rộng vốn nâng đỡ họ xưa nay. Cái chết của những người yêu thương họ và của những người họ yêu thương khiến họ dễ bị thương tổn cách đặc biệt. Gia đình nào biết dùng viễn kiến đức tin để tiếp nhận sự hiện diện của những người khuyết tật sẽ biết nhìn nhận và bảo đảm phẩm chất và giá trị của mọi sự sống, với các nhu cầu, quyền lợi và cơ hội của nó. Họ sẽ kích thích sự phục vụ và chăm sóc, và phát triển tình đồng hành và tình âu yếm ở mọi giai đoạn của cuộc sống.

Những người không kết hôn

22. Nhiều người không kết hôn không những dấn thân cho gia đình gốc của họ, mà thường còn sẵn sàng hết lòng phục vụ giữa vòng bạn bè, trong cộng đồng Giáo Hội và trong sinh hoạt chuyên nghiệp nữa. Tuy thế, sự hiện diện và đóng góp của họ thường không được ai lưu ý, và điều này khiến họ cảm thấy bị cô lập. Nơi họ, trong rất nhiều trường hợp, ta thường thấy những hoài bão cao thượng khiến họ dấn thân vào nghệ thuật, khoa học và thiện ích của nhân loại. Do đó, nhiều người đã hiến tài năng của họ để phục vụ cộng đồng Kitô hữu như dấu chỉ đức ái và việc làm thiện nguyện. Lại còn có những người không kết hôn vì đã hiến đời mình cho tình yêu Đức Kitô và anh chị em mình. Nhờ sự tận tụy của họ, gia đình được phong phú hóa rất nhiều, cả trong Giáo Hội lẫn trong xã hội.

Di dân, tỵ nạn, những người bị bách hại

23. Hiện tượng di dân và hậu quả của nó đối với gia đình đáng để ta lưu ý đặc biệt. Bằng nhiều cách, nó tác động lên toàn bộ dân số tại nhiều vùng trên thế giới. Trong phạm vi này, Giáo Hội vốn đóng một vai trò hàng đầu. Nghĩa vụ trung thành và khai triển chứng tá Tin Mừng này hiện nay khẩn thiết hơn bao giờ hết. Lịch sử nhân loại là một lịch sử di dân: sự thật này đã được ghi vào chính đời sống các dân tộc và các gia đình. Đức tin của ta càng củng cố sự thật này hơn nữa: Tất cả chúng ta đều phát sinh từ những người hành hương. Niềm xác tín này nên khơi dậy trong ta một sự cởi mở và tinh thần trách nhiệm đầy hiểu biết đối với thách đố di dân, cả di dân phát sinh từ đau khổ hay di dân như một cơ hội thăng tiến đời sống. Tính di động của con người, một tính rất phù hợp với việc con người chuyển dịch tự nhiên trong lịch sử, có thể biểu lộ ngay trong nó một sự phong phú hóa chân chính đối với cả gia đình di dân lẫn xứ sở tiếp nhận họ. Một điều khác cần xem xét là việc cưỡng bức một số gia đình phải di dân, vì tình thế chiến tranh, vì bách hại, vì nghèo đói, vì bất công, qua những cuộc hành trình đầy bất trắc có khi đe doạ tới tính mạng khiến nhiều cá nhân bị trấn thương và nhiều gia đình bị bất ổn. Việc đồng hành với di dân đòi ta phải có một thừa tác mục vụ đặc biệt dành cho các gia đình di dân, và dành cho cả các thành viên của các gia đình hạch nhân còn ở lại nguyên quán. Việc này phải tiến hành song song với việc tôn trọng các nền văn hóa, tôn trọng việc đào luyện tôn giáo và nhân bản theo nguyên quán của họ, tôn trọng nét phong phú tâm linh trong các nghi lễ và truyền thống của họ, dù phải nhờ tới một nền chăm sóc mục vụ đặc biệt. “Điều quan trọng là phải xét người di dân không phải chỉ dựa vào tình trạng hợp lệ hay bất hợp lệ của họ, nhưng trước hết phải coi họ như những con người mà nếu duy trì được phẩm giá, họ có thể góp phần vào phúc lợi và sự tiến bộ của mọi người, nhất là khi họ chấp nhận một cách có trách nhiệm các nghĩa vụ như những người tiếp nhận họ, tôn trọng một cách có hiểu biết di sản vật chất và tinh thần của xứ sở tiếp đón họ, tuân thủ các luật lệ và đóng góp làm nhẹ gánh nặng của xứ sở này” (Đức Phanxicô, Sứ Điệp Ngày Di Dân và Tỵ Nạn Thế Giới 2016, 12 tháng Chín 2015). Các vụ di dân dường như càng trở nên cực kỳ bi thảm và tan nát cõi lòng đối với các gia đình và các cá nhân khi diễn ra trong khung cảnh bất hợp pháp và được sự góp tay của các nhóm quốc tế chuyên lo việc buôn bán người. Ta cũng có thể nói như thế về các phụ nữ và trẻ em không có người đi theo, buộc phải ở lâu dài tại các nơi tạm cư, các trại tỵ nạn, nơi không thể có việc khởi đầu diễn trình hội nhập. Cảnh nghèo cùng cực và các tình huống khác của việc tản cư đôi lúc còn dẫn các gia đình tới chỗ bán con cho đĩ điếm hoặc cho việc buôn bán bộ phận người.

24. Việc gặp gỡ một đất nước mới và một nền văn hóa mới càng trở nên khó khăn hơn khi không có các điều kiện đón tiếp và chấp nhận chân chính, liên quan tới quyền lợi mọi cá nhân và việc chung sống hòa bình và bền vững. Điều này dóng lên một lời kêu gọi trực tiếp tới cộng đồng Kitô Giáo: “Trách nhiệm phải tỏ bầy sự nghinh đón, tình liên đới và sự trợ giúp cho người tỵ nạn trước nhất và trên hết là phận sự của Giáo Hội địa phương. Giáo Hội này được kêu gọi phải nhập thân các đòi hỏi của Tin Mừng bằng cách đi ra gặp gỡ, cách bất phân biệt, những người đang gặp lúc khốn khó và cô đơn” (Hội Đồng Giáo Hoàng Cor Unum và Hội Đồng Giáo Hoàng về Chăm Sóc Mục Vụ cho di dân và du khách, Người Tỵ Nạn, Một Thách Đố đối với Tình Liên Đới, 26). Cảm thức mất hướng, hoài nhớ nguyên quán đã mất và các khó khăn của việc hội nhập cho ta thấy ngày nay, ở nhiều nơi, các khó khăn này vẫn chưa được vượt qua và vẫn cho thấy những đau khổ mới ngay nơi các thế hệ thứ hai và thứ ba của các gia đình di dân, vẫn còn cảnh nuôi dưỡng các hiện tượng cực đoan và việc bác bỏ đầy bạo động về phía nền văn hóa nước chủ. Người ta đã chứng minh được rằng một tài nguyên quí hóa để vượt qua các khó khăn này là việc gặp gỡ thực sự giữa các gia đình, và vai trò chủ chốt của các phụ nữ trong diễn trình hội nhập, qua việc chia sẻ kinh nghiệm nuôi dưỡng con cái. Thực vậy, ngay trong các tình huống bấp bênh, người phụ nữ vẫn làm chứng cho nền văn hóa yêu thương của gia đình, một nền văn hóa luôn khuyến khích các gia đình khác biết chào đón và bảo vệ sự sống, nhờ thực hành tình liên đới. Phụ nữ có thể chuyển giao cho các thế hệ mới một đức tin sống động vào Chúa Kitô; đức tin này sẽ nâng đỡ chúng trong tình huống di dân khó khăn và tăng cường chúng. Giống việc bách hại các nhóm thiểu số sắc tộc và tôn giáo khác, việc bách hại các Kitô hữu tại nhiều nơi trên thế giới, nhất là tại Trung Đông, hiện là những thử thách lớn lao: không những đối với Giáo Hội, mà còn đối với toàn thể cộng đồng quốc tế nữa. Phải hỗ trợ mọi cố gắng nhằm khuyến khích các gia đình và cộng đồng Kitô Giáo ở lại các nước nguyên quán của họ. Đức Bênêđíctô XVI từng quả quyết rằng: “Một Trung Đông mà không có hoặc có rất ít Kitô hữu thì không còn là Trung Đông nữa vì các Kitô hữu chia sẻ với các tín hữu khác căn tính đặc biệt của cả vùng” (Tông Huấn, Giáo Hội tại Trung Đông, số 31).

Một số thách đố đặc thù

25. Ở một số xã hội, việc thực hành đa hôn vẫn tiếp tục thịnh hành; ở một số xã hội khác, vẫn còn thói tục hôn nhân hỗn hợp. Ở những nước mà sự hiện diện của Giáo Hội Công Giáo chiếm thiểu số, nhiều cuộc hôn nhân hỗn hợp và khác đạo vẫn còn tồn tại, với mọi khó khăn bao hàm trong đó về việc cấu hình luật pháp, rửa tội, dưỡng dục con cái và tôn trọng quan điểm của nhau do khác biệt về tôn giáo. Trong các cuộc hôn nhân loại này, luôn có nguy cơ sa vào chủ nghĩa duy tương đối hay chủ nghĩa dửng dưng, nhưng cũng có khả thể thăng tiến được tinh thần đại kết và cuộc đối thoại liên tôn nhờ cuộc sống hòa hợp của một cộng đồng cùng chung sống tại một địa điểm. Trong một số tình huống, và không chỉ ở Tây Phương, còn có thói quen khá phổ biến muốn sống chung trước khi lấy nhau, hay một hình thức sống với nhau nhưng không tiến tới chỗ tiếp nhận sợi dây định chế. Thêm vào đó, còn có hình thức luật lệ dân sự nhằm phá hoại cả hôn nhân lẫn gia đình. Ở nhiều nơi trên thế giới, do hiện tượng tục hóa, việc nhắc tới Thiên Chúa bị giản lược rất nhiều và đức tin không còn được chia sẻ trong xã hội nữa.

Con cái

26. Con cái là hồng phúc Chúa ban (xem St 4:1). Chúng phải được xếp hàng đầu trong cuộc sống gia đình và xã hội, và chúng phải tạo ưu tiên trong sinh hoạt mục vụ của Giáo Hội. “Thực vậy, tùy theo cách đối xử với các trẻ em của mình mà một xã hội nào đó sẽ bị phán kết, không chỉ về phương diện luân lý, mà cả về phương diện xã hội nữa, liệu họ có phải là một xã hội tự do hay chỉ là một xã hội lệ thuộc quyền lợi quốc tế... Trẻ em nhắc ta nhớ rằng chúng ta luôn là những người con trai hay những người con gái... và điều này nhắc ta nhớ sự kiện này: đời sống không phải là điều ta tự ban cho mình mà là điều ta tiếp nhận được” (Đức Phanxicô, Yết Kiến Chung, 18 tháng Ba năm 2015). Tuy nhiên, con cái thường trở thành đối tượng tranh chấp giữa cha mẹ và là nạn nhân thực sự của các gia đình tan vỡ. Trong nhiều trường hợp, quyền lợi con cái đã bị coi thường. Tại một số nơi trên thế giới, chúng bị coi là lính đánh thuê thực sự, làm công nhân lương thấp, bị sử dụng trong chiến tranh, trở thành đối tượng của đủ thứ bạo hành về thể lý hay tâm lý. Các trẻ em di dân bị đặt vào nhiều tình huống đau khổ khác nhau. Việc khai thác tình dục trẻ thơ hiện là một trong các thực tại tai tiếng và đồi trụy nhất của xã hội ngày nay. Trong các xã hội có tiếng bạo động gây ra bởi chiến tranh, khủng bố hay tội ác có tổ chức, con số các gia đình trong trạng huống tha hóa mỗi ngày một gia tăng. Tại các thành phố lớn và vùng ngoại vi, hiện tượng gọi là trẻ em đường phố đang tồi tệ thêm một cách bi thảm.

Người đàn bà

27. Người đàn bà giữ vai trò chủ chốt trong cuộc sống người ta, trong gia đình và ngoài xã hội. “Ai cũng mang ơn mẹ đã ban cho mình sự sống, và hầu như lúc nào, trong suốt các giai đoạn kế tiếp sau đó của cuộc sống, của việc đào luyện nhân bản và thiêng liêng, cũng nợ ơn bà” (Đức Phanxicô, Yết Kiến Chung, ngày 7 tháng Giêng, 2015). Người mẹ gìn giữ ký ức và ý nghĩa của việc sinh hạ xuyên suốt đời người: “Về phần Bà Maria, bà giữ mọi điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:19, 51). Tuy nhiên, trên thực tế, thân phận người đàn bà vẫn lệ thuộc nhiều dị biệt đáng kể, phát sinh từ các nhân tố xã hội và văn hóa đương thịnh. Phẩm giá người đàn bà cần được bảo vệ và phát huy. Đây không phải là một vấn đề đơn thuần thuộc tài nguyên kinh tế, mà là một vấn đề thuộc viễn ảnh văn hóa khác hẳn, như thân phận khó khăn của các phụ nữ tại các nước mới được phát triển gần đây đã chứng tỏ. Ngay bây giờ, trong rất nhiều tình huống, là đàn bà cũng đủ gây ra kỳ thị: chính hồng phúc làm mẹ cũng đang bị chế giễu hơn là khen ngợi. Nhưng theo một viễn ảnh khác, trong một số nền văn hóa, là một người đàn bà hiếm muộn cũng bị coi như một thân phận bị kỳ thị về xã hội. Cũng không nên quên những hiện tượng bạo hành đang gia tăng hiện nay đối với người đàn bà ngay trong gia đình. Việc khai thác phụ nữ và việc bạo hành đối với thân xác họ thường có liên hệ với việc phá thai và cưỡng bức triệt sản. Thêm vào đó, còn có các hậu quả tiêu cực phát sinh từ các tập tục liên quan tới việc sinh sản như cho thuê tử cung hay rao bán các giao tử và bào thai. Việc giải phóng người đàn bà đòi phải suy nghĩ lại vai trò của các người phối ngẫu trong tính hỗ tương của họ và trong trách nhiệm chung đối với cuộc sống gia đình. Ý muốn có con bằng bất cứ giá nào không làm cho các mối liên hệ của gia đình trở nên hạnh phúc hơn hay vững mạnh hơn, nhưng trong nhiều trường hợp chỉ tổ làm trầm trọng thêm sự bất bình đẳng giữa đàn ông và đàn bà. Việc đánh giá cao hơn đối với trách nhiệm của người đàn bà trong Giáo Hội có thể góp phần vào việc xã hội thừa nhận vai trò có tính quyết định của họ: dự phần vào việc ra quyết định, tham gia việc quản trị một số định chế, can dự vào việc đào tạo các thừa tác viên thụ phong.

Người đàn ông

28. Người đàn ông đóng một vai trò cũng có tính quyết định không kém trong cuộc sống của gia đình, nhất là trong việc bảo vệ và nâng đỡ vợ con. Thánh Giuse là mẫu mực của họ, một người đàn ông công chính, một người, trong giờ phút nguy nan, “đang đêm, đã đem con trẻ và mẹ Người trốn sang Ai Cập” (Mt 2:14) và đưa họ tới nơi an toàn. Nhiều người đàn ông ý thức được tầm quan trọng của vai trò mình trong gia đình và đã sống thực vai trò này bằng một khả năng độc đáo của bản chất nam nhi. Sự vắng mặt của người cha để lại một dấu vết nặng nề trong cuộc sống gia đình, trong việc dưỡng nuôi con cái, và việc hội nhập chúng vào xã hội. Sự vắng mặt của ông có thể có tính thể lý, cảm giới, tri thức và thiêng liêng. Sự thiếu vắng này khiến con cái mất đi mẫu mực thích đáng của tác phong làm cha. Việc càng ngày càng sử dụng nhân công phụ nữ ở bên ngoài gia đình chưa tìm được sự đền bù thoả đáng qua việc người đàn ông cam kết nhiều hơn đối với khung cảnh gia đình. Trong bối cảnh hiện nay, sự nhậy cảm của người đàn ông trong vai trò bảo vệ vợ con chống mọi hình thức bạo hành và hạ giá đã yếu đi nhiều. “Người chồng, Thánh Phaolô dạy, phải thương yêu vợ mình ‘như chính thân thể mình’ (Eph 5:28); phải thương yêu nàng như Chúa Kitô ‘yêu thương Giáo Hội và hiến mình cho Giáo Hội’(câu 25). Nhưng các ông chồng các ông...có hiểu điều đó không? Yêu vợ các ông như Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội?...Hiệu quả của sự tận tình triệt để đòi hỏi nơi người đàn ông này, vì yêu và kính trọng người đàn bà, theo gương Chúa Kitô, phải thật lớn lao trong cộng đồng Kitô hữu. Hạt giống mới mẻ của Tin Mừng này, một hạt giống vốn tái lập tính hỗ tương nguyên thủy của lòng tận tình và kính trọng, đã lớn dần trong lịch sử, nhưng cuối cùng đã thắng thế” (Đức Phanxicô, Yết Kiến Chung, 6 tháng Năm, 2015).

Giới trẻ

29. Nhiều người trẻ vẫn coi hôn nhân là ước nguyện cao cả của đời họ, và ý tưởng có gia đình riêng là hoàn thành mọi khát vọng của họ. Tuy nhiên, trong cụ thể, họ lại có những thái độ khác hẳn khi nói tới hôn nhân. Họ thường bị dẫn dụ tới việc triển hạn hôn nhân vì các vấn đề kinh tế, hoặc vì công việc hoặc vì học hành. Đôi khi, cũng vì các lý do khác nữa, như ảnh hưởng ý thức hệ chuyên hạ giá hôn nhân và gia đình, kinh nghiệm thất bại của các cặp khác, kinh nghiệm mà họ không muốn liều mạng, sợ sệt trước một điều họ coi là quá cao thượng và thánh thiêng, các cơ hội xã hội và lợi điểm kinh tế phát xuất từ việc sống chung, quan niệm yêu thương hoàn toàn có tính xúc cảm và thơ mộng, sợ mất tự do và độc lập, bác bỏ bất cứ điều gì có tính định chế và bàn giấy. Giáo Hội hết sức quan tâm trước việc nhiều người trẻ không tin tưởng vào hôn nhân, và đau khổ trước việc nhiều tín hữu vội vàng quyết định bác bỏ cam kết hôn nhân và thay thế nó bằng một điều gì khác. Các người trẻ đã chịu phép rửa được khuyến khích đừng do dự đối với việc phong phú hóa mà bí tích hôn nhân sẽ mang tới cho các kế hoạch của họ dựa trên tình yêu, được tăng cường bởi sự hỗ trợ họ có thể rút ra được từ ơn thánh của Chúa Kitô và bởi khả thể tham dự trọn vẹn vào đời sống Giáo Hội. Thành thử, điều chủ yếu là biện phân một cách cẩn thận hơn các động lực nằm bên dưới việc bác bỏ và thất vọng. Nhờ các gia đình trong cộng đồng Kitô hữu biết nêu gương đáng tin tưởng như một chứng tá mãn đời, giới trẻ sẽ tự tin hơn khi đối diện với việc chọn lựa hôn nhân.

Còn tiếp
 
Diễn biến vụ tấn công khủng bố kinh hoàng tại Paris
Đặng Tự Do
04:46 14/11/2015
Vụ tấn công khủng bố trong nội thành Paris và vùng phụ cận diễn ra từ lúc 21:16 giờ địa phương ngày thứ Sáu 13 tháng 11 và chấm dứt lúc 00:58 ngày thứ Bẩy 14 tháng 11 tại 7 địa điểm khác nhau với ba vụ nổ bom và sáu vụ nổ súng.

Ít nhất 120 người đã thiệt mạng, trong đó thương vong nặng nề nhất diễn ra tại nhà hát Bataclan với 87 người bị giết. Hơn 200 người bị thương trong các cuộc tấn công, trong đó có 80 người được ghi nhận đang trong tình trạng nghiêm trọng. Tám tên khủng bố đã thiệt mạng nhưng nhà chức trách tin rằng một số tên đã tẩu thoát và có thể có những đồng phạm.

Tổng thống Pháp Francois Hollande đã ban bố tình trạng khẩn cấp trong một tuyên bố trên truyền hình vào lúc 23:58 giờ địa phương. Đây là lần đầu tiên kể từ khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai Pháp phải công bố tình trạng khẩn cấp.

Đây là cuộc tấn công lớn nhất của chủ nghĩa khủng bố trên lục địa châu Âu kể từ khi nhà ga xe lửa Madrid bị đánh bom vào năm 2004. Vụ này gây ra một quan ngại sâu xa vì bọn khủng bố đã có thể tấn công ngay cả khi nước Pháp đã thắt chặt an ninh trước thềm Hội nghị biến đổi khí hậu năm 2015 của Liên Hiệp Quốc được tổ chức tại Paris từ 30 tháng Mười Một đến 11 tháng Mười Hai quy tụ 50,000 tham dự viên trong đó có 25,000 đại biểu chính thức của Liên Hiệp Quốc, các quốc gia, các tôn giáo và các tổ chức phi chính phủ khác.

Lúc 21:16 bọn khủng bố xả súng bắn vào những người đang ngồi bên ngoài quán cà phê Le Carillon ở ngã ba đường Bichat và đường Alibert, gần kênh đào Saint-Martin ở quận 10 của thành phố Paris. 7 người bị giết chết. Sau đó, chúng tấn công một nhà hàng Căm Bốt gần đó. Cảnh sát cho biết 11 người bên trong nhà hàng Căm Bốt bị giết chết. Bọn khủng bố tẩu thoát trên một hoặc hai chiếc xe hơi trong đó ít nhất một chiếc mang bảng số của Bỉ.
Quán cà phê Le Carillon


Lúc 21:30, ba vụ nổ liên tiếp đã diễn ra tại một quán bar gần sân vận động Stade de France ở khu Saint-Denis, lúc trận đấu giao hữu giữa đội tuyển Pháp và đội tuyển Đức đã bắt đầu được khoảng hai mươi phút. 5 người được báo cáo là thiệt mạng trong những vụ nổ này. Tổng thống Pháp Francois Hollande đang có mặt trong sân vận động để theo dõi cuộc thi đấu đã được đưa an toàn ra khỏi hiện trường, và có cuộc họp khẩn với Bộ trưởng Nội vụ Pháp Bernard Cazeneuve. Hai trong ba vụ nổ có thể nghe được rõ ràng trên các chương trình phát sóng truyền hình trực tiếp trận đấu. Cảnh sát cho biết cả ba vụ nổ đều là đánh bom tự sát.

Lúc 21:50, bọn khủng bố tấn công vào nhà hàng La Belle Equipe trên đường Charonne ở Quận 11 giết chết 18 người.

Nghiêm trọng nhất là vụ tấn công tại nhà hát Bataclan trên đại lộ Voltaire ở Quận 11. Ban nhạc Mỹ Eagles of Death Metal đã trình diễn được khoảng một giờ trước một con số đông đảo là 1,500 người, ngồi đầy rạp hát.

Bốn tên khủng bố người da đen trang bị AK-47 bước vào rạp hát. Các nhân chứng cho biết họ nghe bọn chúng hô to "Allahu akbar" trước khi nổ súng một cách bình tĩnh và có phương pháp vào đám đông. Cuộc tấn công kéo dài khoảng 20 phút, và chúng có đủ thời gian để nạp đạn đến 3 hay 4 lần. Các nhân chứng báo cáo rằng những kẻ tấn công đã ném cả lựu đạn vào đám đông.

Vào khoảng 10 giờ tối, khi cảnh sát kéo đến bao vây nhà hát, bọn khủng bố bắt khoảng 60 cho đến 100 người làm con tin. Các thành viên trong ban nhạc trốn thoát được nhưng bọn khủng bố đã bắn chết từng con tin một trong tiến trình giằng co với cảnh sát.

Vào khoảng 00:15, cảnh sát được lệnh tấn công vào nhà hát và kiểm soát được tình hình lúc 00:58. Các báo cáo của cảnh sát lúc ban đầu nói trên 100 người đã bị giết chết tại nhà hát. Tuy nhiên, con số này sau đó đã được hạ xuống còn 87. Bốn tên khủng bố đã thiệt mạng, ba tên nổ bom tự sát chết. Tên thứ tư bị cảnh sát bắn trúng và bom quấn quanh thắt lưng của hắn nổ tung khi hắn bị té xuống.

Một tên khủng bố khác nổ bom tự sát trên đại lộ Voltaire gần nhà hát Bataclan.

1,500 quân nhân đã được điều vào thủ đô Paris để giữ trật tự.

Đây là vụ khủng bố thứ sáu tại Paris từ đầu năm đến nay. Vụ thứ nhất diễn ra từ 7 đến 9 tháng Giêng tại tòa soạn nhật báo biếm họa Charlie Hebdo, và sau đó tại một siêu thị Do Thái làm 20 người bị thiệt mạng và 22 người khác bị thương.

Gần một tháng sau đó, hôm 3 tháng Hai, 3 quân nhân đứng gác tại một trung tâm sinh hoạt của người Do Thái tại thành phố Nice bị đâm.

Chúa Nhật 19 tháng Tư, một tên khủng bố dự định tấn công vào 2 nhà thờ trong khu vực Villejuif đã giết chết một phụ nữ để cướp xe. Hung thủ trong lúc lau súng sau khi giết người đã bị cướp cò làm bị thương một chân và kế hoạch gây án bị thất bại.

Ngày 26 tháng 6, một tên khủng bố khác chặt đầu người chủ mình và cắm thủ cấp của ông bên ngoài nhà máy trước khi lái xe tông vào một nhà máy sản xuất khí đốt với ý định làm nổ tung nhà máy này.

Ngày 21 tháng 8, một tên khủng bố tấn công trên xe lửa Amsterdam đi Paris nhưng bị hành khách khống chế.
 
Tuyên bố của Tòa Thánh về vụ tấn công khủng bố tại Paris
Đặng Tự Do
04:59 14/11/2015
Ngay sau khi được tin về vụ tấn công khủng bố tại Paris, Cha Federico Lombardi, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh đã đưa ra thông báo sau:

“Tại Vatican, chúng tôi đang theo dõi những tin tức bi thảm từ Paris. Chúng tôi kinh hoàng trước những biểu hiện mới của sự điên loạn, bạo lực khủng bố và thù hận mà chúng tôi lên án một cách triệt để nhất cùng với Đức Thánh Cha và tất cả những người yêu chuộng hòa bình. Chúng tôi cầu nguyện cho các nạn nhân và những người bị thương, và cho tất cả người dân Pháp.

Đây là một cuộc tấn công vào nền hòa bình của toàn thể nhân loại, và nó đòi hỏi một đáp trả kiên quyết, được sự ủng hộ của tất cả chúng ta khi chúng ta chống lại sự lây lan của thứ hận thù giết người dưới tất cả các hình thức của nó.”
 
Điện văn chia buồn của Đức Thánh Cha về vụ tấn công khủng bố tại Paris
Đặng Tự Do
16:58 14/11/2015
Đức Thánh Cha Phanxicô đã gởi điện văn chia buồn tới Đức Hồng Y André Vingt-Trois, Tổng Giám Mục Paris về vụ tấn công khủng bố tàn bạo tối thứ Sáu 13 tháng 11. Nội dung bức điện do Đức Hồng Y Pietro Parolin gởi nhân danh Đức Thánh Cha như sau:

Được thông báo về các cuộc tấn công khủng bố kinh hoàng đã xảy ra tại Paris và tại khu vực Stade de France, làm nhiều người bị thiệt mạng và làm bị thương nhiều người khác, Đức Thánh Cha Phanxicô hiệp thông trong lời cầu nguyện trước những đau khổ của các gia đình bị ảnh hưởng bởi thảm kịch này và trước nỗi đau của người dân Pháp.

Ngài cầu khấn cùng Thiên Chúa là Cha của lòng thương xót, xin Chúa đón nhận các nạn nhân vào chốn bình an trong ánh sáng của Ngài và mang lại ủi an và hy vọng cho những người bị thương và gia đình của họ. Ngài đoan chắc sự gần gũi tinh thần với họ, và tất cả các nhân viên tham gia vào các nỗ lực cứu trợ.

Một lần nữa, Đức Thánh Cha mạnh mẽ lên án bạo lực, là điều không thể giải quyết được gì, và cầu xin Chúa linh hứng cho những ý tưởng hòa bình và đoàn kết nơi tất cả mọi người và ưu ái ban phép lành cho các gia đình trong lúc thử thách này và cho tất cả những người dân Pháp.

+ Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh
 
Năm Thánh Lòng Thương Xót trong bối cảnh vụ tấn công khủng bố tại Paris
Đặng Tự Do
17:35 14/11/2015
Hôm thứ Bảy, 14 tháng 11, công tố viên Francois Molins cho biết kết quả sơ khởi của các cuộc điều tra cho thấy ba nhóm sát thủ đã thực hiện 7 vụ tấn công tại Paris hôm thứ Sáu giết chết 129 người và làm bị thương ít nhất 352 người khác.

Sáng thứ Bẩy, quân đội Pháp đã đảm trách việc canh gác các đường phố theo sau vụ tấn công được ghi nhận là đẫm máu nhất trên đất Pháp kể từ khi phát xít Đức xâm lược nước này hồi Thế chiến II.

Trong khi đó, Koen Geens bộ trưởng tư pháp của Bỉ cho biết một số người đã bị bắt tại Brussels vì có liên quan đến cuộc tấn công.

Sau khi giết chết 18 người tại quán cà phê Le Carillon và tại một nhà hàng Căm Bốt gần đó, hai tên khủng bố đã tẩu thoát trên một chiếc xe hơi mang bảng số của Bỉ. Chiếc xe này của một công ty cho mướn xe tại Brussels. Lần theo dấu vết này, cảnh sát đã bắt một số người tình nghi và khám xét nhà của ba tên sát thủ đã thiệt mạng.

Sáng sớm thứ Bảy, tổng thống Francois Hollande quy trách nhiệm vụ tấn công này cho bọn khủng bố Hồi Giáo IS và mô tả vụ tấn công “hèn nhát” này là một “hành động chiến tranh”.

Hollande nói thêm: "Chúng tôi sẽ làm việc cùng với các đồng minh của chúng tôi để chống lại mối đe dọa khủng bố này. .. Nước Pháp là mạnh mẽ và thậm chí nếu bị tổn thương quốc gia này sẽ luôn luôn đứng thẳng dậy và không có gì có thể đè bẹp được nó, ngay cả khi chúng ta cảm thấy nỗi đau bây giờ. .. Chúng ta sẽ bảo vệ chính mình. "

Thủ tướng Pháp Manuel Valls nói thêm: "Chúng tôi đang có chiến tranh. Và trong cuộc chiến này, chúng tôi sẽ giành chiến thắng."

Hôm thứ Bẩy, bọn khủng bố Hồi Giáo IS đưa ra một thông cáo tự nhận trách nhiệm về vụ tấn công vào “những địa điểm có chọn lọc” nhằm trừng phạt nước Pháp “thập tự quân”. Chúng còn tung ra một video kêu gọi người Hồi giáo không thể tham gia cuộc thánh chiến ở Syria hãy thực hiện các cuộc tấn công tại Pháp và các thành phố khác như Rôma, Luân Đôn...

Một đoạn nói bằng tiếng Pháp và tiếng Ả rập thúc giục người Hồi Giáo như sau:

"Bạn đã được lệnh phải chiến đấu chống lại quân vô đạo ở bất cứ nơi nào bạn thấy chúng"

Một quan chức Pháp xác nhận với NBC News rằng một hộ chiếu Syria đã được tìm thấy trên thi thể của những kẻ tấn công. Người mang hộ chiếu này đã xin tị nạn tại Liên minh châu Âu qua ngã Hy Lạp hồi tháng trước. Hiện chưa rõ liệu đó có phải là hộ chiếu của một trong tên sát thủ hay không.

Trong một thông cáo liên quan đến việc tổ chức Năm Thánh Lòng Thương Xót, bắt đầu vào ngày 8 tháng 12 tới đây, cha Lombardi khẳng định bạo lực khủng bố gây chết chóc điên loạn và vô nghĩa trong các ngày này nhằm mục đích gieo vãi kinh hoàng. Nếu chúng ta để cho mình sợ hãi là chúng đã đạt được mục đích đầu tiên. Đây là một lý do khác để cương quyết chống lại cám dỗ sợ hãi. Dĩ nhiên cần phải thận trọng, có tinh thần trách nhiệm và đề phòng hợp lý, nhưng phải tiếp tục sống, xây dựng hòa bình và tin tưởng lẫn nhau. Do đó Năm Thánh Lòng Thương Xót lại càng cần thiết hơn nữa. Sứ điệp của lòng thương xót, nghiã là của tình yêu của Thiên Chúa đem lại yêu thương và hòa giải chính là câu trả lời cho các thời điểm cám dỗ mất tin tưởng. Đức Gioan Phaolô II đã nói rằng sứ điệp của lòng thương xót đã là câu trả lời lớn lao của Thiên Chúa và các tín hữu trong thời khắc đen tối và kinh hoàng của đệ nhị thế chiến, của những vụ tàn sát do các chế độ độc tài gây ra, của việc phổ biến thù hận giữa các dân tộc và con người.

Hôm nay, khi Đức Thánh Cha Phanxicô nói tới đệ tam thế chiến từng mảnh, cần có sứ điệp của lòng thương xót để khiến cho chúng ta có khả năng hòa giải, xây dựng các cây cầu mặc cho tất cả, và có can đảm yêu thương. Đây không phải là thời điểm khước từ Năm Thánh hay sợ hãi. Nhưng chúng ta cần Năm Thánh hơn bao giờ hết. Chúng ta phải sống khôn ngoan, cũng như can đảm và với tinh thần hăng say, tiếp tục tiến tới, mặc dù có các tấn kích của thù hận. Đức Thánh Cha Phanxicô hướng dẫn chúng ta và mời gọi chúng ta tin tưởng nơi Chúa Thánh Thần là Đấng đồng hành với chúng ta
 
Thượng Hội Đồng về Gia Đình năm 2015, Tường Trình Sau Cùng, Phần I, chương 4
Vũ Văn An
22:47 14/11/2015
Chương IV

Gia đình, cảm tính và sự sống

30. Bất cứ ai muốn hiến tặng hồng phúc sự sống, hẳn đều nhận được nó như một hồng phúc. Chắc chắn, như chính Chúa đã dạy ta, người ta có thể trở nên một mạch suối từ đó tuôn ra nước nuôi sống (xem Ga 7:37-38). Nhưng để trở nên mạch suối ấy, chính họ phải luôn luôn uống từ mạch suối nguyên thủy là Chúa Giêsu Kitô, mà từ cạnh sườn bị đâm thủng của Người, tình yêu của Thiên Chúa đã tuôn ra (xem Ga 19:34) (DCE, 7). Nhu cầu phải chăm lo chính bản thân mình, phải biết mình từ bên trong, phải luôn sống hòa hợp hơn với các xúc cảm và tâm tư của mình, phải tìm kiếm các liên hệ cảm giới có phẩm chất, nhu cầu này đòi người ta phải đón nhận hồng phúc yêu thương của người khác và sẵn sàng xây dựng các mối liên hệ hỗ tương đầy tính sáng tạo, những mối liên hệ có trách nhiệm và vững chắc giống như các mối liên hệ gia đình. Thách đố của Giáo Hội là trợ giúp các cặp vợ chồng lớn lên về phương diện xúc cảm và phát triển cảm tính của họ nhờ phát huy đối thoại và nhân đức, và tín thác vào tình yêu thương xót của Thiên Chúa. Việc cam kết hiến thân hoàn toàn, điều mà hôn nhân Kitô Giáo luôn đòi hỏi, là một phản cực mạnh mẽ đối với sự hiện hữu cá thể, chỉ hướng về chính mình.

Huấn luyện việc tự hiến

31. Phong thái trong các liên hệ gia đình gây ảnh hưởng hàng đầu lên việc huấn luyện cảm tính cho thế hệ trẻ. Tốc độ thay đổi trong xã hội hiện nay làm cho việc đồng hành với người đang được huấn luyện để trưởng thành về cảm tính trở thành cực kỳ khó khăn. Việc này đòi một hành động mục vụ thích đáng, một hành động thấm đẫm sự hiểu biết Thánh Kinh và giáo huấn Công Giáo và được cung cấp nhiều dụng cụ giáo dục thỏa đáng. Một kiến thức thích đáng về tâm lý học gia đình cũng rất hữu ích để có thể trình bầy viễn kiến Kitô Giáo một cách hữu hiệu: Nỗ lực giáo dục này nên bắt đầu với giáo lý khai tâm. Việc huấn luyện này phải lưu ý nhấn mạnh đến giá trị của đức trong sạch, hiểu như việc thống nhất hóa các xúc cảm yêu thương, một điều sẽ khuyến khích sự hiến thân của ta.

Sự mỏng manh và non dại

32. Trong thế giới hiện nay, có rất nhiều khuynh hướng văn hóa đang cố gắng áp đặt một thứ tính dục không hạn chế, là thứ tính dục muốn khám phá mọi khía cạnh của nó, ngay cả các khía cạnh rất phức tạp. Sự mỏng manh non dại về cảm xúc có liên hệ ở đây: lòng yêu mình thái quá về cảm tính, một thứ yêu không ổn định và thất thường, không giúp người ta đạt được sự chín chắn lớn hơn. Những điều sau đây cần bị kết án mạnh mẽ: việc phổ biến văn hóa khiêu dâm và thương mãi hóa thân xác con người, nhất là khi được sự hỗ trợ của việc sử dụng internet méo mó; việc cưỡng bức đĩ điếm và việc khai thác điều này. Trong một bối cảnh như thế, các cặp vợ chồng đôi khi thấy bất trắc, do dự, và loay hoay tìm những cách đúng đắn để lớn lên. Con số những người tiếp tục ở lại mãi trong các giai đoạn đầu của cuộc sống xúc cảm và tính dục không hề ít chút nào. Cuộc khủng hoảng ảnh hưởng tới các cặp vợ chồng đang gây bất ổn cho gia đình và, qua nạn ly thân và ly dị, đang đem lại những hậu quả thảm khốc cho người trưởng thành, cho trẻ em và cho xã hội, làm suy yếu các mối liên hệ cá nhân và xã hội. Việc sa sút dân số, do não trạng chống sinh sản gây ra và được nền chính trị ‘sinh sản lành mạnh’ khắp thế giới cổ vũ, đang đe dọa sợi dây nối kết giữa các thế hệ. Một hậu quả xa hơn là ra nghèo về kinh tế và mất hết hy vọng nói chung.

Sinh sản kỹ thuật và sinh sản nhân bản

33. Cuộc cách mạng kỹ thuật sinh học trong lãnh vực sinh sản của con người đã đem lại khả thể thao túng hành vi sinh đẻ, khiến nó độc lập đối với liên hệ tính dục giữa người đàn ông và người đàn bà. Theo cách này, sự sống con người và năng lực sinh đẻ đã trở thành các thực tại có thể sử dụng mà cũng có thể vứt bỏ tùy ý, phần lớn tùy thuộc ý muốn của các cá nhân hay của các cặp, không nhất thiết phải dị tính hay cưới xin đàng hoàng. Hiện tượng này mới xuất hiện gần đây như một điều hoàn toàn mới lạ đối với cảnh vực con người, và càng ngày càng trở nên phổ thông hơn. Tất cả các hiện tượng này gây ảnh hưởng sâu xa tới tính năng động của các mối liên hệ, tới các cơ cấu của đời sống xã hội và tới hệ thống luật pháp, là những hệ thống luôn tìm cách can thiệp và qui định các thực hành đã xẩy ra và các tình huống đủ loại. Về vấn đề này, Giáo Hội biết rõ sự cần thiết phải đưa ra những lời nói đúng sự thật và đem lại hy vọng. Giáo Hội phải khởi đi từ xác tín này: con người phát xuất từ Thiên Chúa và luôn sống trước mặt Người: “sự sống con người là điều thánh thiêng, vì ngay từ thuở ban đầu, nó đã bao hàm ‘hành động sáng tạo của Thiên Chúa’ và vẫn luôn ở trong một mối liên hệ đặc biệt với Đấng Tạo Hóa, cùng đích duy nhất của nó. Chỉ có Thiên Chúa mới là chúa tể của sự sống từ đầu tới lúc nó kết liễu: không ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào, có thể nhận bậy cho mình quyền được trực tiếp tiêu hủy một mạng sống nhân bản vô tội” (Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Chỉ Thị Donum Vitae (Hồng Phúc Sự Sống), Dẫn Nhập, số 5; xem Đức Gioan Phaolô II, Tin Mừng Sự Sống, 53).

Thách đố mục vụ

34. Đề xuất nào trình bầy lại từ đầu các câu hỏi lớn về ý nghĩa sự sống con người đều tìm được đất tốt trong các hoài bão sâu xa nhất của nhân loại. Các giá trị cao thượng của hôn nhân và gia đình Kitô Giáo luôn phù hợp với cuộc tìm kiếm vốn là đặc điểm của kinh nghiệm nhân bản, ngay trong thời nặng ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa khoái lạc. Điều bắt buộc là phải chào đón người ta một cách đầy hiểu biết và nhậy cảm đối với thực tại đời sống họ, và biết cách hỗ trợ họ trong cuộc tìm kiếm ý nghĩa của họ. Đức tin nuôi dưỡng lòng khát khao Thiên Chúa và ý nguyện muốn cảm thấy mình trọn vẹn thuộc về Giáo Hội nơi những người đang kinh qua thất bại hoặc những người đang rơi vào các tình huống cực kỳ khó khăn. Sứ điệp Kitô Giáo luôn chứa đựng trong nó thực tại và năng động tính của lòng thương xót và sự thật, là những điều hội tụ nơi Chúa Kitô: “sự thật đầu tiên của Giáo Hội là tình yêu của Chúa Kitô. Giáo Hội cậy nhờ tình yêu này, một tình yêu vươn tay ra tha thứ và tự hiến, và là trung gian cho nhân loại. Bởi thế, bất cứ Giáo Hội ở đâu, lòng thương xót của Chúa Cha cũng phải hiển hiện ở đấy” (MV 12). Trong việc huấn luyện để bước vào cuộc sống hôn nhân và gia đình, việc chăm sóc mục vụ phải lưu ý tới tính đa dạng trong các tình huống cụ thể. Một đàng, nếu cổ vũ các phương cách để đảm bảo việc huấn luyện hôn nhân cho người trẻ là điều cần thiết, thì đàng khác, ta phải đồng hành với những người sống một mình hay không có ý định lập gia đình hạch nhân mới, mà thường gắn bó với gia đình gốc của họ. Cũng thế, Giáo Hội nên có một nền chăm sóc mục vụ đặc biệt cho các cặp không thể có con, giúp họ khám phá ra kế hoạch Thiên Chúa muốn dành cho tình huống của họ, trong việc phục vụ toàn thể cộng đồng. Ai cũng cần cái nhìn có hiểu biết, biết lưu ý tới các tình huống tuy xa cách đời sống Giáo Hội nhưng không luôn cố ý, mà thường là bị dẫn dụ và đôi lúc bất ngờ xẩy đến. Theo viễn ảnh đức tin, họ không bị loại trừ: tất cả đều được Thiên Chúa yêu thương và hiện diện ngay ở tâm điểm của thừa tác mục vụ của Giáo Hội.

Còn tiếp
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Hội Bạn Người Cùi Việt Nam Úc Châu mừng bổn mạng năm thứ 25
Trần Văn Minh
04:47 14/11/2015
Melbourne, trong một ngày trời đẹp, nắng tươi vàng, mọi người từ khắp các nẻo đường trong Tổng Giáo phận Melbourne đã cùng nhau tụ họp về Ngôi Giáo đường Thánh Đa Minh cổ kính tại vùng Camberwell, sáng Thứ Bảy 14/11/15 lúc 11 giờ để dâng Thánh lễ kính Thánh Martino là bổn mạng của Hội Bạn Người Cùi Việt Nam Úc Châu, và cũng dâng lễ tạ ơn kỷ niệm 25 năm ngày thành lập hội.

Mời coi hình

Thánh lễ do Linh mục Phê Rô Nguyễn Văn Toàn OP Tuyên Úy Hội chủ tế, cùng với Linh mục Giuse Phạm Hữu Trường OP và Linh mục Nguyễn Trọng Chính OP đồng tế. Ca đoàn Cung Chiều đã đồng hành cùng hội trong suốt thời gian dài qua, phụ trách phần Thánh ca cùng đông đảo giáo dân trong hội và nhiều gia đình đã bồng bế con cái và các cụ già hai ba thế hệ gia đình cùng đến để hiệp dâng Thánh lễ.

Đại diện của hội đứng tại các cửa ra vào để gửi đến mọi người bản tường trình và thư ngỏ của Linh mục Tuyên úy Hội, trình bày về những sinh hoạt của hội trong niên khóa 2014-2015 với những thu chi rõ ràng. Mọi đóng góp của các ân nhân hội viên đều được gửi về giúp trực tiếp cho các trại Phong Cùi tại Việt Nam qua các Dòng như Phao Lô và Rosa Lima, mà hầu hết hoạt động trên vùng cao nguyên nơi có các đồng bào Thượng nghèo, hội hầu như không có tồn quỹ.

Trong bài chia sẻ, Linh mục chủ tế đã kể lại chuyến đi thăm trực tiếp tại các nơi có những người anh em Phong Cùi mà hội đã giúp đỡ nhiều năm qua. Có đi mới tận mắt chứng kiến những khổ đau của họ, có những người hội chỉ giúp một lần rồi thôi như làm giúp họ căn nhà, còn phần đông, hội có chương trình giúp đỡ lâu dài như giúp đào giếng lấy nước sạch sinh hoạt, giúp con em họ đi học để có tương lai tốt hơn. Nhờ vào lòng quảng đại của các vị ân nhân, trong 25 năm qua, Hội đã thực hiện giúp đỡ được nhiều người, chia sẻ an ủi với những người bạn để họ bớt đi nỗi bất hạnh. Xin mọi người tiếp tục đồng hành trong sự giúp đỡ hội trong những năm kế tiếp.

Trong dịp kỷ niệm 25 năm ngày thành lập hội, Linh mục chủ tế không quên nhắc đến những ân nhân những ngày đầu mà không thể quên Cố Linh mục Vinh Sơn Nguyễn Tiến Hải, Người đã tập họp mọi người lại trong tình bác ái và là sáng lập viên Hội Bác Ái Thánh Martino, tiền thân của Hội Bạn Người Cùi Việt Nam Úc Châu ngày nay. Những vị hết lòng cùng hội trong nhiều năm qua mà nay đã về cùng Chúa. Xin mọi người hợp lòng hợp ý để cầu nguyện cho họ và dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì những hồng ân chúng ta được hưởng hôm nay. Ca đoàn Cung Chiều với bài ca thật ý nghĩa với lời ca: “mỗi khi con giúp đỡ ai, vì lòng thương yêu bác ái…… thì cũng là làm cho Chúa mà thôi.”

Cuối lễ, đại diên hội là ông Quốc Việt lên trình bày thêm về các sinh hoạt của hội, cùng thông báo một số việc trong hội, cũng trong dịp kỷ niệm 25 năm ngày thành lập Hội, Hội có tượng Thánh Martino để làm món quà kỷ niệm đến các ân nhân và hội viên. Cũng như mọi năm, vì là vào giờ trưa, hội cũng có bữa ăn nhẹ trong khuôn viên nhà xứ để mọi người chung vui trò chuyện trước khi trở về. Mọi người vui vẻ quây quần bên nhau trong niềm vui mừng bổn mạng.
 
Thánh lễ cầu cho giáo phận bế mạc tuần tĩnh tâm linh mục đoàn Hà Nội năm 2015
Giuse Trần Ngọc Huấn
10:35 14/11/2015
THÁNH LỄ CẦU CHO GIÁO PHẬN BẾ MẠC TUẦN TĨNH TÂM LINH MỤC ĐOÀN HÀ NỘI NĂM 2015

“Lạy Chúa, Chúa muốn dùng các hội thánh địa phương tản mác khắp hoàn cầu, để mọi người thấy được Hội thánh Công Giáo, duy nhất, thánh thiện và tông truyền. Xin gìn giữ linh mục và giáo dân hiệp nhất với giám mục của mình; xin dùng Lời Chúa và Thánh Thể quy tụ tất cả trong một Thánh Thần, để Hội Thánh Việt Nam chúng con nên hình ảnh Hội Thánh hoàn cầu, và nên dấu chỉ Chúa Kitô hiện diện trên thế giới”. Lời nguyện nhập lễ này đã gói trọn bao tâm tình của toàn thể Cộng đoàn Phụng vụ trong Thánh lễ đặc biệt được cử hành tại Nhà thờ Chính Tòa Hà Nội chiều ngày thứ Sáu, 13 tháng 11 năm 2015 do Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn – Tổng Giám mục Giáo phận Hà Nội – chủ sự để cầu cho Giáo phận và bế mạc tuần tĩnh tâm Linh mục.

Xem Hình

Thánh lễ được cử hành với sự đồng tế của linh mục đoàn Tổng Giáo phận đang tham dự kỳ tĩnh tâm thường niên tại Tòa Tổng Giám mục. Tham dự Thánh lễ có đông đảo quý chủng sinh Đại Chủng viện, quý tu sỹ nam nữ và cộng đoàn Dân Chúa. Tất cả làm nên một bầu khí Phụng vụ trang trọng và sốt sắng. Có thể nói, mọi người đang sống trong một buổi chiều rất đẹp, không chỉ là cái đẹp của thời tiết mát mẻ và không gian thanh bình, nhưng còn là cái đẹp của sự hiệp nhất, của tình gia đình khi mọi thành phần Dân Chúa cùng quy tụ trong ngôi nhà thờ Mẹ, bên vị Mục Tử giáo phận để cùng cử hành Phụng vụ Thánh.

Bước vào Thánh lễ, Đức Hồng Y ngỏ lời với cộng đoàn: Anh chị em rất thân mến, ngày mai, linh mục đoàn của Giáo phận sẽ bế mạc tuần tĩnh tâm, nhưng trước khi ra về, chúng tôi muốn có một cuộc gặp gỡ với anh chị em – thay mặt cho toàn thể cộng đoàn Dân Chúa của Giáo phận. Anh chị em cũng đã đồng hành với chúng tôi trong những ngày tĩnh tâm. Anh chị em đã cầu nguyện. Và, chúng tôi cũng đã tĩnh tâm một cách sốt sắng với nhiều hồng ân của Chúa, để chúng tôi có thể thi hành sứ vụ linh mục của mình như ý Chúa muốn, nhưng cũng vì anh chị em và cho anh chị em. Vì thế, chiều nay, tất cả chúng ta hãy dâng lên Chúa lời tạ ơn vì phúc lành của Người thật dồi dào, và chúng ta cũng cầu nguyện cho Giáo phận của chúng ta – một Giáo phận có bề dày lịch sử và cống hiến để góp phần vào cho việc trưởng thành của Giáo Hội Việt Nam. Ngài kêu mời cộng đoàn thanh tẩy tâm hồn để bước vào Thánh lễ: Để cho lời cầu nguyện và Thánh lễ mà chúng ta sắp cử hành đây tôn vinh Chúa và đem lại nhiều lợi ích thiêng liêng, chúng ta hãy khiêm tốn nhìn nhận sự bất xứng của chúng ta để xin Chúa thương thanh tẩy và ban ơn để chúng ta cử hành cho xứng đáng.

Tinh thần hiệp nhất và lời cầu nguyện thật quan trọng và có ý nghĩa lớn với đời sống của người con cái Chúa. Chúng ta chỉ có thể hiệp nhất và cầu nguyện cách xứng đáng được Chúa nhận lời. cũng như yêu thương và tha thứ, nếu chúng ta ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa. Sứ điệp ấy được Đức Hồng Y quảng diễn trong bài giảng lễ của Ngài. Ngài nói: Dân mà Chúa chọn thì vì những lỗi lầm của họ mà họ bị phân tán đi khắp nơi, nhưng Thiên Chúa là Cha, Ngài không bỏ đoàn con của Ngài nên luôn luôn Ngài tìm cách để quy tụ họ về; và khi đã được quy tụ về, họ sẽ được gặp gỡ Ngài. Đó cũng là ý nghĩa của tuần tĩnh tâm mà chúng tôi đang trải qua, đó cũng là sự việc mà chúng ta đang thực hiện trong giờ phút này, vì khi chúng ta tụ họp lại thì chúng ta cầu nguyện, và cầu nguyện chính là điều thiết yếu trong cuộc đời của mỗi chúng ta; nhờ cầu nguyện, chúng ta mới có thể sống hiệp nhất và bác ái với nhau – đó chính là điều thiết yếu mà Chúa chờ đợi chúng ta nơi gia đình, giáo xứ và giáo phận của chúng ta.

Đức Hồng Y đề cập tới vấn đề cầu nguyện: Chúng ta cũng đã từng quy tụ lại và cũng đã cầu nguyện, nhưng xem ra chúng ta chưa xác tín đủ trong lời cầu nguyện của mình. Theo Ngài, có hai điều cần thiết trong cầu nguyện. Điều thứ nhất, khi cầu nguyện chúng ta cần có ý hợp tâm đầu. Nghĩa là, khi cầu nguyện, chúng ta phải là một cộng đoàn, một đoàn dân của Chúa, một lòng một ý. Khi cầu nguyện mà chúng ta còn phân rẽ thì lời cầu nguyện chúng ta không xứng để dâng lên tới Chúa được. Điều thứ hai, khi chúng ta cầu nguyện thì đừng quên nhân danh Chúa. Chúa hứa rằng lời cầu nguyện của chúng ta sẽ được chấp nhận, nhưng Ngài cũng có đặt ra điều kiện là phải nhân danh Ngài, tức là theo cách thức mà Ngài chỉ dạy, theo cách thức mà sáng danh Ngài, cầu nguyện để làm cho Lời của Ngài luôn được thực thi. Chỉ trong trường hợp đó thì Ngài luôn hiện diện ở giữa chúng ta. Và khi đó, Chúa Cha không thể nào từ chối Lời cầu nguyện của chúng ta, vì Chúa Cha luôn yêu thương và sẵn sàng nghe lời Con của mình. Chúng ta phải biết tha thứ cho nhau, vì chúng sự tha thứ làm cho chúng ta nên một lòng một ý, xóa đi sự chia rẽ.

Đức Hồng Y cũng nhắc tới gương tha thứ của Thánh Phêrô và cảm nghiệm của Thánh Gioan Tông đồ. Thánh Phêrô đã tha thứ một cách mạnh dạn. Đạo Do Thái dạy tha thứ cho người khác 3 lần, còn Ngài tha thứ đến 7 lần, tức là sự tha thứ vô hạn. Nhưng Chúa đòi hỏi sự tha thứ vô cùng lớn, tha thứ trọn vẹn, sự tha thứ không có giới hạn, không có điều kiện. Sự tha thứ đến từ chính Thiên Chúa, chúng ta không thể tha thứ trọn vẹn, nhưng dựa vào ơn của Chúa chúng ta mới làm được điều đó. Đây là điều mà Thánh Gioan cảm nghiệm sâu xa và ngài kết luận: Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta và sai Con của Người đến để làm của lễ đền tội cho chúng ta. Khởi đi từ tình yêu vô cùng lớn lao của Thiên Chúa, “nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta dường ấy thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau”.

Đức Hồng Y kết thúc bài giảng của mình bằng lời kêu gọi cộng đoàn sống yêu thương và tha thứ như chính Chúa: Bao giờ nói đến tha thứ, nói đến yêu thương, thì đừng nghĩ đến mình, cũng đừng nghĩ đến người đã xin lỗi nhưng hãy nghĩ đến Chúa và cảm nghiệm xem Ngài đã tha thứ đến thế nào, và chỉ một chút sự tha thứ của Chúa mà chúng ta áp dụng cho anh em của chúng ta thì cũng đã đẹp lòng Chúa. Chúng ta hãy tin tưởng: với Thánh lễ mà chúng ta đang cử hành đây, Lời Chúa chính là sức mạnh cho chúng ta, bàn tiệcMình Máu Thánh là chính Chúa thông ban sự sống của Ngài cho chúng ta và chúng ta đón nhận tràn đầy để chúng ta có thể yêu thương và tha thứ như chính Chúa đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta.

Sau bài giảng của Đức Hồng Y, Thánh lễ tiếp tục với lời nguyện chung hướng đến các nhu cầu của Hội Thánh và Giáo Hội địa phương, cầu nguyện cho Đức Thánh Cha, cho Đức Hồng Y cùng mọi thành phần Dân Chúa trong Tổng Giáo phận. Phần Phụng vụ Thánh Thể được cử hành trọng thể trong một bầu khí trang nghiêm và thiêng thánh.

Thánh lễ kết thúc lúc 19 giờ 20. Toàn thể cộng đoàn Phụng vụ cất lời ca tôn vinh, nguyện xin Đức Mẹ đoái đến gia đình Tổng Giáo phận và thương gìn giữ mỗi người trong hành trình đức tin để luôn biết yêu mến và hiệp nhất với nhau. Với Thánh lễ hôm nay, linh mục đoàn Tổng Giáo phận đã bế mạc tuần tĩnh tâm thường niên năm 2015.

Giuse Trần Ngọc Huấn
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Bản thân chữ Quốc Ngữ ''có tội với dân tộc Việt Nam không''?
Nguyễn Văn Nghệ
10:24 14/11/2015
BẢN THÂN CHỮ QUỐC NGỮ “CÓ TỘI” VỚI DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG?

Sáng thứ bảy, ngày 3/10/2015 tại khu Viet Star Resort, thành phố Tuy Hòa , tỉnh Phú Yên, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn- Đại học Quốc gia TP.HCM phối hợp với Trường Đại học Phú Yên và Viện Nghiên cứu Phát triển Phương Đông tổ chức Hội thảo Khoa học cấp quốc gia về “Chữ Quốc ngữ: Sự hình thành, phát triển và đóng góp vào văn hóa Việt Nam”.

Hội thảo có sự tham gia của hơn 100 nhà khoa học, nhà nghiên cứu, giảng viên, học viên, hội ngôn ngữ và các trường cao đẳng , đại học trong cả nước. Hội thảo ghi nhận công lao của các giáo sĩ phương Tây trong việc hình thành chữ Quốc ngữ: trong đó quyển Từ điển Việt- Bồ- La là thành quả của một tập thể các giáo sĩ người Bồ đào nha như Francisco de Pina, Gaspar de Amaral, Antonio Barbosa và người có công tập hợp, hệ thống lại để quy tụ thành cuốn từ điển nói trên là giáo sĩ Alexandre de Rhodes.

Sinh thời Wilhelm von Humboldt nói: Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc. Quả vậy, với lịch sử 400 năm hình thành, vận động và cải tiến chữ Quốc ngữ là tinh thần, là linh hồn của dân tộc Việt. Vốn quí ấy của dân tộc cần được nuôi dưỡng để phát triển mạnh mẽ hơn.

Một số “trí thức” kết tội chữ Quốc ngữ.

Vào năm 2009, nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng có văn thư gởi cho Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam nêu í nguyện muốn hiến tặng tượng giáo sĩ Alexandre de Rhodes mà ông đã tạc, cho thủ đô Hà Nội nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long.

Với í nguyện hiến tặng của nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng đã gây nên một sự phản đối của một số người. Tuần báo Giác Ngộ số 497, 498 và 500 có đăng bài phản đối việc làm của nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng và qua đó kết tội giáo sĩ Alexandre de Rhodes cũng như chữ Quốc ngữ.

Sau khi đọc những bài báo ấy những người ít am tường về lịch sử trở nên hoang mang nêu lên thắc mắc là : Giáo sĩ Alexandre de Rhodes và chữ Quốc ngữ có công hay có tội với dân tộc Việt Nam?

Công – Tội của giáo sĩ Alexandre de Rhodes

Theo ông Nguyễn Đắc Xuân cũng như một số học giả khác thì giáo sĩ Alexandre de Rhodes “đã và đang bị các nhà sử học trong và ngoài nước chứng minh rằng đấy là một trong những đầu mối thúc đẩy thực dân Pháp vào cướp nước ta”(1).

Trước ngày miền Nam hoàn toàn bị “giải phóng” tại Thủ đô Sài Gòn có con đường mang tên giáo sĩ Alexandre de Rhodes. Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, theo như quan điểm của đảng cộng sản, Nhà nước ta và các nhà sử học mác xít thì giáo sĩ Alexandre de Rhodes là người có tội với dân tộc Việt Nam, vì đã góp phần vào việc thực dân Pháp xâm lăng nước ta, cho nên tên đường Alexandre bị hủy bỏ và thay vào đó là một tên khác. Sau đó một thời gian, với nhiều cuộc hội thảo khoa học lịch sử đã nhìn nhận lại công lao đóng góp cho dân tộc Việt Nam, nên đã cho phục lại tên đường Alexandre de Rhodes. Hiện con đường mang tên giáo sĩ Alexandre de Rhodes nằm phía trước dinh Thống Nhất .

Đối với người ít am tường về lịch sử, họ lí luận một cách rất đơn giản: Việc đảng và Nhà nước cho phục lại tên đường Alexandre de Rhodes là đã nhìn nhận công lao của giáo sĩ Alexandre de Rhodes, vì không thể đem tên một người có tội với dân tộc đặt tên cho đường phố bao giờ!

Ai là người sáng lập ra chữ Quốc ngữ?

Cũng theo ông Nguyễn Đắc Xuân: “Giả như chữ Quốc ngữ có giá trị to lớn với dân tộc Việt Nam thì Đắc Lộ cũng chỉ là một trong nhiều người sáng lập ra. Vậy tại sao anh Hạng không dựng một cụm nhiều người mà chỉ tạc có một mình Alexandre de Rhodes?” (2)

Khi nhắc đến Nho giáo người ta chủ yếu nhắc đến Khổng tử mà thôi và tôn kính Khổng tử là “Vạn thế sư biểu”, nhưng thực ra Nho giáo đã hình thành trước thời Khổng tử nhưng chưa được hệ thống và Khổng tử là người “Tập đại thành” các tư tưởng ấy lại có hệ thống . Khổng tử đánh giá công lao của mình: “thuật nhi bất tác”(thuật lại điều của người xưa và không sáng tác gì mới cả!)

Việc sáng lập ra chữ Quốc ngữ là công trình của nhiều giáo sĩ phương Tây như: Francisco de Pina, Gaspar de Amaral, Antonio Barbosa…là điều không ai phủ nhận cả, nhưng chính giáo sĩ Alexandre de Rhodes mới là người “tập đại thành” cuốn Từ điển Việt – Bồ- La. Do đó, khi nhắc đến việc sáng lập chữ Quốc ngữ, hậu thế thường nhắc đến giáo sĩ Alexandre de Rhodes là vậy.

Bản thân chữ Quốc ngữ không hề “có tội”.

Ông Nguyễn Đắc Xuân còn đưa ra í kiến phê phán chữ Quốc ngữ: “Sự thật chữ Quốc ngữ có công trong việc truyền đạo Thiên Chúa ở Việt Nam và có tội là đã dựa vào thực dân Pháp đẩy chữ Hán- Nôm của dân tộc Việt Nam vào quên lãng”(3)

Nhiều quốc gia xung quanh nước ta đang mơ ước có chữ viết theo mẫu tự Latin, riêng ông Nguyễn Đắc Xuân lại nuối tiếc chữ Hán- Nôm!

Thực dân Pháp xây dựng cầu Long Biên với mục đích xấu là khai thác thuộc địa mà thôi, nhưng sau 1954 nó trở thành hữu ích trong giao thông vận tải của nước ta, ngoài ra cầu Long Biên còn là biểu tượng, là niềm tự hào của người dân Thủ đô Hà Nội, đến nỗi có rất nhiều người không đồng tình phá bỏ cây cầu quá cũ kỹ này!

Mục đích của người sáng lập ra chữ Quốc ngữ với mục đích để truyền đạo mà thôi, nhưng sau đó chúng ta có thể tiếp thu và biến nó thành “linh hồn” của dân tộc. PGS.TS. Võ Văn Sen – Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn- Đại học Quốc gia TP.HCM trong bài phát biểu tại Hội thảo ở Phú Yên ngày 3/10/2015: “Tiếng Việt ngày nay như một chiếc cầu nối đưa văn hóa Việt Nam ra ngoài thế giới và góp phần đưa văn hóa thế giới đến với dân tộc Việt Nam. Có được diện mạo và có được một sức hút mãnh liệt như hiện nay, tiếng Việt cũng như nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới cũng trải qua bao thăng trầm cùng với dân tộc”

Cách nay khoảng hơn trăm năm, các cụ trong phong trào Duy tân (các cụ đều xuất thân cửa Khổng, sân Trình đều ghét thực dân Pháp) đã đề cao chữ Quốc ngữ và xem chữ Quốc ngữ là hồn, là tinh hoa của dân tộc. Bài “Chiêu hồn nước” ghi: “Chữ Quốc ngữ là hồn trong nước,/ Phải đem ra tỉnh trước dân ta/ Sách Ây Mỹ, sách Chi na,/ Chữ kia, chữ nọ dịch ra tỏ tường/ Công, nông, cổ trăm đường cũng thế/ Họp bày nhau thì dễ lo toan/ Á Âu chung lại một lò/ Đúc nên tư cách mới cho rằng người”.

Sau phong trào Duy tân một thời gian, Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ được thành lập và cụ Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố đã từng là Hội trưởng và cụ La Sơn Hoàng Xuân Hãn từng là Hội viên.

Như vậy bản thân chữ Quốc ngữ không hề “có tội”. Nếu nước ta cho trưng cầu dân í chọn chữ Quốc ngữ hay chữ Hán- Nôm làm chữ viết chính thức cho dân tộc Việt Nam thì không biết những người cho rằng chữ Quốc ngữ “có tội” sẽ chọn chữ viết nào đây? Và không biết lâu nay các công trình nghiên cứu của ông Nguyễn Đắc Xuân được viết bằng chữ Quốc ngữ hay Hán –Nôm? Và ông có duy trì việc dạy chữ Hán- Nôm cho con cháu của ông không?

Cho dù giáo sĩ Alexandre de Rhodes cũng chỉ là một trong những người đóng góp vào việc sáng tác chữ Quốc ngữ mà thôi, chúng ta cũng phải trân trọng biết ơn giáo sĩ. Chúng ta không nên đưa ra những í kiến phê phán ngược với đạo lí “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân tộc ta.

Nguyễn Văn Nghệ

Tổ dân phố Phú Lộc Tây I ,Thị trấn Diên Khánh- Khánh Hòa

Chú thích:

1,2,3 Tuần báo Giác Ngộ số 498 ra ngày 15/08/2009, trang 14-15 .