Ngày 29-12-2020
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Thứ Tư 30/12: Thánh Luca và những người phụ nữ - Suy Niệm của Lm. Nguyễn Trọng Thiên, SVD
Giáo Hội Năm Châu
00:12 29/12/2020


Video bắt đầu lúc 7g tối thứ Ba 29/12/2020

PHÚC ÂM: Lc 2, 36-40

“Bà đã nói về Người với tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.

Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.

Đó là lời Chúa.
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:26 29/12/2020

7. Chảy một giọt nước mắt trước Đức Chúa Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh trên thập giá, thì có giá trị hơn một năm ăn chay.

(Thánh Augustine)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")


----------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:29 29/12/2020
22. BÊNH LỜI NÓI DỐI

Có một người thích nói khoác, thường vò đầu bức tai để bênh lời nói dối của mình, hắn ta thường nói trong nhà mình có một con vịt mái, mỗi năm có thể đẻ ngàn cái trứng, mọi người đều lấy làm khó chịu nói:

- “Làm gì mà đẻ nhiều như thế?”

Hắn ta liền đếm từ từ trên đầu ngón tay và bỏ bớt còn sáu trăm, mọi người cũng không tin.

Hắn ta bèn nói:

- “Số mục này không thể bớt thêm được nữa, tôi thề sẽ nuôi thêm nhiều vịt mái nữa”.

(Tuyết Đào Hài Sứ)

Suy tư 22:

Nói dối là một sự tội, tội nặng hay nhẹ thì tùy theo mức độ nói dối gây thiệt hại cho tha nhân; nói dối là tội, điều này ai cũng biết, nhưng lại có rất nhiều người cứ bàu chữa cho cái tội nói dối của mình...

Người có danh vọng quyền thế mà không có đạo đức, thì khi “lỡ” nói dối thì tìm mọi cách và mọi lý lẽ để bảo vệ lời nói dối của mình, mà lý lẽ “vú lấp miệng em” là lấy quyền oai ra hăm dọa, lấy danh vọng chức vụ ra thề thốt để cho lời nói dối của mình là lời nói thật, bởi vì nếu không thì sẽ mất hết danh dự cá nhân, mà khi đã nói dối một lần thì sẽ có nói dối lần thứ hai, khi đã bào chữa cho lời nói dối của mình lần thứ nhất thì sẽ có lời bàu chữa nói dối lần thứ hai...

Một con vịt mái không thể đẻ ngàn cái trứng trong một năm, nhưng một người không đạo đức có thể nói dối mười lần trong một ngày.

Nói dối là chuyện xấu, nhưng rướn cổ lên mà cãi để bảo vệ lời nói dối của mình thì không những xấu, mà còn bày tỏ một tâm hồn không thành thật thường lỗi đức công bằng và bác ái.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


-----------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Những dạng thức tỏ mình của Thiên Chúa
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
16:44 29/12/2020
CHÚA NHẬT HIỂN LINH
Những dạng thức tỏ mình của Thiên Chúa
Is 60,1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12

Hôm nay, chúng ta long trọng cử hành lễ Hiển Linh. Từ cổ xưa, lễ này được gọi là “Lễ Ánh Sáng” hay “Lễ Ba Vua;” Trong tiếng Hy Lạp lễ Hiển Linh được gọi là Epifania, có nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình, hay bày tỏ vinh quang cho loài người. Trong thánh lễ này, chúng ta tìm hiểu về những con đường hay những hình thức Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta:

1- Thiên Chúa tỏ mình qua công trình tạo thành

Thiên Chúa tỏ mình ra qua công trình của Người, đó là công trình tạo thành. Chúng ta có thể nhận biết quyền năng và vinh quang Thiên Chúa qua công trình tạo dựng. Quả thế, thiên nhiên là cuốn sách không ngừng nói về Thiên Chúa: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa. Không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới. Đêm này kể lại với đêm kia” (Tv 19,2-3). Vũ trụ này là kiệt tác của Thiên Chúa. Nhìn ngắm công trình Tạo Hóa, khiến phàm nhân phải tác lưỡi:

“Non kia ai đắp mà cao
Sông kia ai bới ai đào mà sâu.
Mặt trời sáng chói trăng sao.
Ai khôn đem dán nơi cao chín tầng.
Bò dê và các thú rừng.
Chim bay cá lội vẫy vùng đó đây.
Cỏ cây bông trái tùy thời.
Ai là kẻ có biệt tài dựng nên?
Thưa rằng ấy chính Hoàng Thiên,
Gọi là Tạo Hóa, chính tên Chúa Trời.”

Bởi thế, Newton, một nhà thiên văn vĩ đại, khi nghiên cứu các hành tinh đã quả quyết: “Tôi thấy Thiên Chúa đi qua ống kính viễn vọng của tôi.”

Hơn nữa, thiên nhiên là cuốn sách sống động không ngừng nói về tình yêu quan phòng của Thiên Chúa đối với mọi loài. Mỗi tạo vật dù là nhỏ bé đều là đối tượng được Thiên Chúa quan phòng che chở. Văn hào Dante cho rằng: “Tình yêu Thiên Chúa làm chuyển động mặt trời và các ngôi sao.”

Thế giới này là món quà Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta để giúp chúng ta sống tốt và sống hạnh phúc. Đồng thời, Thiên Chúa trao phó cho con người có trách nhiểm bảo vệ, gìn giữ và phát triển công trình tạo thành. Môi trường là ngôi nhà chung của mỗi người. Mẹ trái đất bao bọc và nuôi dưỡng chúng ta. Nếu hủy hoại môi trường là hủy hoại con người. Môi trường sống, con người sống, môi trường chết, con người sẽ chết.

Gần đây, chúng ta chứng kiến thảm họa ô nhiễm môi trường do Formosa gây ra, đã làm cho người dân Miền Trung phải điêu đứng. Đó là hậu quả của tội phá hoại môi trường và cái giá quá đắt của chủ trương phát triển kinh tế bằng mọi giá!

Trước vấn đề ô nhiễm môi trường, Đức Giáo Hoàng Phanxicô quả quyết trong Thông Điệp Laudato Sí rằng: “Tội chống lại tự nhiên cũng là tội chống lại chúng ta và là tội chống lại Thiên Chúa.”

Với tư cách là Kitô hữu, chúng ta có trách nhiệm bảo vệ, gìn giữ và phát triển môi trường thiên nhiên luôn xanh sạch đẹp theo chương trình của Thiên Chúa.
Như thế, Qua cuốn sách này, Thiên Chúa bày tỏ vẻ đẹp, quyền năng và sự khôn ngoan của Người. Nhờ đó, chúng ta nhận biết có Thiên Chúa hiện hữu, quan phòng và tài tình xếp đặt mọi thứ được trật tự và ổn định hài hòa.

2- Thiên Chúa tỏ mình qua Lời

Thiên Chúa còn bày tỏ chính mình cho chúng ta biết qua Lời Chúa, tức là qua Kinh Thánh. Lời Chúa chứa đựng trong Kinh Thánh, được các tác giả Kinh Thánh chép lại bằng ngôn ngữ loài người, dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Đó là Lời Thiên Chúa nói với con người qua các tiên tri và các tác giả Sách Thánh. Tác giả thư Hípri quả quyết: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ” (Hr 1,1).

Cũng như đối với con người, qua lời nói ta biết được ý muốn, suy nghĩ, tâm tình của người nói. Cũng thế, Kinh Thánh là cuốn sách mạc khải cho chúng ta biết về chính Thiên Chúa là ai, về ý muốn và tư tưởng của Người. Lời Chúa mạc khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa, về con người và thế giới. Lời Chúa còn có vai trò hướng dẫn đời sống mỗi người chúng ta, như Thánh Vịnh nói: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105). Bởi thế, khi cử hành phụng vụ, chúng ta đọc Lời Chúa, suy gẫm Lời Chúa. Lời Chúa là lương thực tâm linh nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta. Lời Chúa mang lại sự sống đời đời. Nên chúng ta cần phải học hỏi Kinh Thánh để hiểu biết về Thiên Chúa. Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô như thánh Giêrônimô quả quyết.

3- Thiên Chúa tỏ mình qua Ngôi Lời

Con đường thứ ba, Thiên Chúa tỏ mình qua Người Con là Ngôi Lời nhập thể. Đây là sự tỏ mình, sự mạc khải lớn nhất!

Thư gửi tín hữu Hípri đã có những lời đầy ý nghĩa về mạc khải này: “Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa” (Hr 1,2-3). Theo đó, Con Thiên Chúa nhập thể làm người và ở giữa chúng ta. Thiên Chúa vô hình trở thành hữu hình. Ngôi Lời tiền hữu đã đi vào lịch sử.Biến cố này gây ngạc nhiên, làm “xôn xao” vũ trụ và khắp nơi. Thiên Chúa bày tỏ mình qua Người Con là Đức Giêsu. Việc Con Chúa sinh ra là sự hiển linh vĩ đại cho loài người. Thánh Phaolô nói: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo” (Cl 1,15). Sau này, chính Chúa Giêsu quả quyết: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9), “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30). Người là ánh sáng huy hoàng bừng lên chiếu rọi những ai ngồi trong bóng tối (x. Is 60,1-6). Cho nên, biến cố Nhập Thể hay Giáng Sinh là biến cố Thiên Chúa hiển linh, nơi đó Thiên Chúa tỏ mình cho hết mọi người, cho người Do Thái cũng như dân ngoại, cho người cao trọng cũng như người mọn hèn.

Vì thế, mừng biến cố Con Chúa giáng sinh và hiển linh, chúng ta được mời luôn biết tìm kiếm Thiên Chúa qua ba con đường mà Người đã mở ra cho chúng ta. Amen!

ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An
http://nguoinguphu.blogspot.com/
 
Lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
16:49 29/12/2020
LỄ ĐỨC MARIA, MẸ THIÊN CHÚA 01/01

Theotokos, tước hiệu cao cả nhất

Ds 6,22-27; Gl 4,4-7; Lc 2,16-21

Hôm nay Giáo Hội cử hành trọng thể lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Trong bài đọc II, thánh Phaolô loan báo mầu nhiệm này như sau: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5).

Với những lời này, tính mẫu tử thần linh của Đức Maria được đưa vào trung tâm của mầu nhiệm Kitô giáo. Và việc chúng ta được làm con Thiên Chúa được gắn liền với nó như chúng ta thấy ở đây. Khi định nghĩa Đức Maria là Theotokos, Mẹ Thiên Chúa, các Giáo Phụ trong Công Đồng Êphêsô 431 đã không sai lầm khi gán cho tước hiệu này một tầm quan trọng quyết định cho tất cả suy tư thần học Kitô giáo. Theo đó, tước hiệu này nói với chúng ta về Chúa Giêsu, về Thiên Chúa và về chính Đức Maria.

1- Theotokos nói về Chúa Giêsu là con người thật

Trước hết, tước hiệu này nói với chúng ta về Chúa Giêsu. Hơn nữa, nó là con đường tốt nhất để khám phá ý nghĩa đích thực của Giáng Sinh. Xét về nguồn gốc, Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu liên quan đến Chúa Giêsu nhiều hơn là Đức Maria. Về Chúa Giêsu, trước hết, nó minh chứng rằng Người là một con người thực sự: “Tại sao chúng ta nói rằng Đức Kitô là con người, nếu không phải Người được sinh bởi Đức Maria, là một con người?” Tertullianô đã nói như thế. Người không chỉ là con người theo bản tính, nhưng còn là người theo cách thế hiện hữu, bởi vì Người đã muốn chia sẻ với con người không chỉ một bản tính chung chung, nhưng cả kinh nghiệm. Người đã sống cuộc sống nhân loại trong mọi hoàn cảnh cụ thể. Một khía cạnh khó khăn nhất để chấp nhận Đức Giêsu trở nên giống với loài người là trước hết phải được thụ thai và sinh bởi một người phụ nữ. Nhóm Ngộ Đạo thuyết phủ nhận ý tưởng về một Thiên Chúa “nhập thể trong bào thai, được sinh ra trong đau đớn, được chăm sóc và cho bú mớm.” Tertullianô trả lời: “Chính Đức Kitô đã yêu thương loài người, và với con người, Người cũng đã yêu cả cách thức để đến trong thế gian. Sự sinh ra của một con người và việc người phụ nữ đau đớn khi sinh con là đối tượng rất tự nhiên đáng được tôn trọng. Bạn khinh thường điều đó; thế bạn đã được sinh ra như thế nào?”

Về Chúa Giêsu, trong nghĩa thứ hai, tước hiệu Mẹ Thiên Chúa chứng thực rằng Người là Thiên Chúa thật. Ở đây, Chúa Giêsu không chỉ được nhìn như một con người đơn thuần, một tiên tri lớn nhất, nhưng còn là Thiên Chúa, vì thế, Đức Maria mới có thể gọi là “Mẹ Thiên Chúa.”

Nếu không, chúng ta chỉ gọi là Mẹ của Chúa Giêsu, hoặc Mẹ của Chúa Kitô, mà không phải là Mẹ Thiên Chúa. Như thế, tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa như là người bảo vệ và lính canh: nó canh giữ cho tước hiệu “Thiên Chúa” của Đức Giêsu không rơi vào sai lạc của lạc giáo. Như vậy, tước hiệu Mẹ Thiên Chúa không chỉ chứng thực nhưng không ngừng giúp con người nhận biết trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã làm người.

2- Theotokos minh chứng Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật

Tiếp đến, về Chúa Giêsu, tước hiệu Mẹ Thiên Chúa minh chứng rằng Người là Thiên Chúa và là con người trong một ngôi vị duy nhất. Đây là mục đích mà các nghị phụ Công Đồng Êphêsô đã chọn tước hiệu này. Nó nói với chúng ta về sự hiệp nhất sâu thẳm giữa Thiên Chúa và con người được thực hiện trong Chúa Giêsu; Thiên Chúa đã gắn bó với con người và đã hiệp nhất nên một trong sự hiệp nhất sâu thẳm nhất trong thế giới này, đó là sự hiệp nhất ngôi vị. Các giáo phụ nói về “cung lòng” Đức Maria là “hoan trường” diễn ra tiệc cưới của Thiên Chúa với loài người, và là “căn phòng” ở đó sự kết hợp của Thiên Chúa và con người được thực hiện.

Nếu trong Chúa Giêsu, nhân loại và thần linh chỉ được hiệp nhất ở phạm vi luân lý, và không phải là ngôi vị, như những người lạc giáo nghĩ và bị Công Đồng Êphêsô kết án, thì Đức Maria không còn được gọi là Mẹ Thiên Chúa, nhưng chỉ là Mẹ Chúa Kitô. Thánh Cirillô thành Alexandria viết: “Các Giáo Phụ không nghi ngờ khi gọi Đức Trinh Nữ là Mẹ Thiên Chúa, không phải vì bản tính của Ngôi Lời hoặc thần tính phát xuất từ Mẹ, nhưng bởi vì Người được sinh ra từ Mẹ, thân xác thánh thiện được ban cho một linh hồn có lý trí, từ đó, Ngôi Lời kết hợp để trở thành một ngôi vị.” Đức Maria là Đấng đã tin tưởng vào Thiên Chúa khi ở trần gian và tin vào nhân loại; với tính mẫu tử thần linh và rất nhân loại, Mẹ đã làm cho Thiên Chúa trở thành Đấng Emmanuen - Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Mẹ đã làm cho Chúa Kitô trở thành người Anh Cả của chúng ta.

Ngoài việc nói về Chúa Kitô, tước hiệu Mẹ Thiên Chúa nói với chúng ta về Thiên Chúa. Trước hết, nó nói với chúng ta về sự khiêm hạ của Người. Thiên Chúa đã muốn có một người mẹ!

Chúng ta hãy suy nghĩ về điều này trong sự phát triển của suy tư nhân loại. Có những nhà tư tưởng cảm thấy ngạc nhiên và khó chịu với việc một con người phải có một người mẹ, bởi vì, như thế có nghĩa là người đó phải phụ thuộc hoàn toàn vào một người, mà không hiện hữu tự mình, không có thể tự mình hiện hữu.

Con người luôn tìm kiếm Thiên Chúa từ trên cao. Con người cố gắng tạo ra một kiểu “kim tự tháp” bằng những cố gắng khổ chế, suy tư, khi cho rằng theo chiều “trên xuống,” họ sẽ tìm thấy Thiên Chúa, hoặc một cách tương tự, trong một số tôn giáo đó là Vô Vi. Người ta không nghĩ rằng Thiên Chúa đã đi xuống, và đã phá đổ “kiểu kim tự tháp đó,” Người đặt mình ở chỗ thấp, để mang vào mình tất cả và mọi người. Thiên Chúa đã hiện diện một cách âm thầm trong bụng dạ của một người nữ.

Khác với Thiên Chúa của các triết gia khi nghĩ Thiên Chúa luôn ở trên cao nên làm cho con người dễ kiêu ngạo, Thiên Chúa Kitô giáo mời gọi con người khiêm tốn. Bởi lẽ, Thiên Chúa đã đi xuống trong lòng của vật chất, bởi vì từ “mater - mẹ” phá xuất từ “materia - vật chất,” theo nghĩa đẹp nhất, nó muốn nói đến sự cụ thể, thực tại hay mét, sự đo lường. Thiên Chúa nhập thể trong lòng một người nữ cũng có nghĩa là Người hiện diện trong lòng vật chất của thế giới, trong bí tích Thánh Thể. Đó là nhiệm cục cứu độ duy nhất và là cách thế độc đáo nhất. Thánh Irênê có lý khi nói rằng “ai không hiểu việc sinh ra của Thiên Chúa bởi Đức Maria thì không hiểu về bí tích Thánh Thể.”

Khi chọn lựa con đường mẫu tử để bày tỏ mình với chúng ta, Thiên Chúa đã mạc khải phẩm giá người phụ nữ theo hình thức mà thánh Phaolô nói với chúng ta thế này: “Khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình, sinh bởi người phụ nữ.” Nếu ngài nói rằng: “Sinh bởi Đức Maria,” có lẽ ngài chỉ nói một chi tiết về tiểu sử, nhưng nói “sinh bởi người phụ nữ.” Như thế, ngài đã đưa ra một sự khẳng định về sự cưu mang hoàn vũ và rộng lớn. Theo đó, mỗi người phụ nữ đều được đề cao trong Đức Maria, với sự cao cả không thể tin được. Ở đây Đức Maria là một người phụ nữ trong số các phụ nữ. Ngày hôm nay, người ta nói nhiều về sự thăng tiến người phụ nữ, đó là một trong những “dấu chỉ thời đại” rất đẹp đẽ và đáng cổ võ. Nhưng chúng ta thường chậm trễ hơn so với Thiên Chúa! Người đã đi trước tất cả chúng ta. Người đã dành cho người phụ nữ một danh dự cao trọng như thế khiến chúng ta phải im tiếng.

3- Theotokos nói về chính Đức Maria

Cuối cùng, tước hiệu Mẹ Thiên Chúa đương nhiên nói với chúng ta về Đức Maria. Mẹ là người duy nhất trong vũ trụ có thể nói với Chúa Giêsu, điều Chúa Cha nói với Người: “Con là con yêu dấu của Ta; hôm nay Ta đã sinh ra con!” Thánh Ignatio thành Antiochia nói với tất cả sự đơn sơ rằng Chúa Giêsu “từ Thiên Chúa và từ Đức Maria.” Giống như chúng ta nói về một người là Con Thiên Chúa và con Đức Maria. Dante Alighieri đã đúc kết hai tước hiệu của Đức Maria là “Trinh Nữ, Mẹ” và “Mẹ, Con Gái,” trong một câu: “Mẹ Trinh Nữ, Con Gái, Con Ngài.”

Tự thân tước hiệu Mẹ Thiên Chúa đủ để thiết lập sự vĩ đại của Đức Maria và xác định danh hiệu dành cho Mẹ. Nhiều lúc, người ta phê bình người Công Giáo đã đi quá xa trong việc tôn kính và quá nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Đức Maria. Đôi khi chúng ta cũng phải nhìn nhận sự phê bình này là xác thực như đã xảy ra trong lịch sử. Nhưng người ta không bao giờ nghĩ rằng Thiên Chúa đã làm điều đó trước. Thiên Chúa đã dành cho Mẹ sự tôn kính đó khi chọn ngài là Mẹ Thiên Chúa, mà không ai có thể nói điều gì cao cả hơn; cả chính Luthêrô cũng từng nói: “Khi gọi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, tước hiệu chứa đựng tất cả sự tôn kính; không ai có thể nói điều gì cao cả hơn về Mẹ, dầu có nói ra bao nhiêu ngôn từ khác nữa chỉ là như lá cây, như sao trên bầu trời, như cát dưới biển. Lòng trí chúng ta phải suy tư ý nghĩa Mẹ Thiên Chúa là gì.”

Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa đặt Đức Maria trong tương quan duy nhất với từng Ngôi Vị trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong lời cầu nguyện mình, thánh Phanxicô Assisi diễn tả thế này: “Lạy Đức Thánh Trinh Nữ Maria, không có ai được như Mẹ, Mẹ được sinh ra trong thế gian, giữa những người phụ nữ, là con gái và là nữ tử của Vua tối cao Cha trên trời, là mẹ Chúa Giêsu Kitô rất thánh, là hiền thê của Chúa Thánh Thần... xin cầu cho chúng con, cùng Con yêu dấu chí thánh của Mẹ, là Chúa và Thầy chúng con.”

Ngày nay, tước hiệu Mẹ Thiên Chúa là điểm gặp gỡ và là nền tảng cho mọi Kitô hữu, để từ đó tìm kiếm sự hiểu biết về địa vị của Đức Maria trong đức tin. Nó cũng là tước hiệu duy nhất cho việc đại kết, không chỉ là điều luật, nhưng còn là dữ kiện được toàn thể Giáo Hội nhìn nhận, bởi vì nó được định tín trong một Công Đồng đại kết. Chúng ta đã nghe điều Luthêrô nghĩ. Trong một lần khác, ông viết: “Tín khoản khẳng định rằng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa có mặt trong Giáo Hội từ thời đầu và Công Đồng Êphêsô đã không định tín nó như là điều mới mẻ. Bởi vì, đó là chân lý đã được quả quyết trong Tin Mừng và trong Kinh Thánh... Những lời của Luca 1,32 và của thư Galata 4,4, đã nhấn mạnh bằng sự chắc chắn rằng Đức Maria thực sự là Mẹ Thiên Chúa. Tước hiệu này được đưa vào công thức đức tin sau cái chết của ngài. Chúng ta tin, dạy và tuyên xưng rằng Đức Maria được gọi cách đúng đắn là Mẹ Thiên Chúa và thực sự là thế.”

Như thế, Mẹ Thiên Chúa, Theotokos là một tước hiệu cần phải luôn nhắc đến, để phân biệt với tất cả các chuỗi tước hiệu và danh xưng khác của Đức Maria.



Nếu nó được toàn thể Giáo Hội dùng một cách chính thống và đã được đánh giá như là một dữ kiện hơn là một điều luật trong phạm vi tín lý, thì nó đủ để tạo ra một sự hiệp nhất nền tảng xung quanh Đức Maria và nếu Mẹ là nguyên nhân của sự hiệp nhất các tín hữu, sau Chúa Thánh Thần, thì tước hiệu này trở thành dự kiện quan trọng nhất cho hiệp nhất đại kết, vì Mẹ là người giúp “tái lập sự hiệp nhất của tất cả con cái Thiên Chúa đang tản mát khắp nơi” (x. Ga 11,52).

Trong quá trình diễn ra Công Đồng Êphêsô, có một giám mục mà trong bài giảng, ngỏ với các Nghị Phụ Công Đồng những lời này: “Chúng ta không được loại bỏ việc tôn kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã cưu mang mầu nhiệm nhập thể. Thật là ngớ ngẩn khi tại các bàn thờ Chúa Kitô, chúng ta ca ngợi thập giá đã gìn giữ và làm cho Mẹ tỏa sáng trên khuôn mặt của Giáo Hội, và rồi sau đó loại bỏ sự tôn kính Mẹ Thiên Chúa, Đấng vì nhìn đến lợi ích lớn lao đã đón nhận thần tính sao?”

Sau khi suy tư về sự cao cả trỗi vượt mà tước hiệu Mẹ Thiên Chúa minh chứng về Đức Maria, chúng ta hiểu tại sao Dante có thể cảm tác trong lời cầu nguyện rất đẹp đẽ về Đức Maria: “Hỡi bà, Đấng rất cao cả và thánh thiện. Rằng ai muốn được ơn phúc mà không chạy đến với, là như muốn bay lên mà không có cánh.”

Tước hiệu này là một dữ kiện để giúp chúng ta có sự tin tưởng vào sự chuyển cầu hiệu lực của Đức Maria. Một bản văn cổ Kitô giáo trong đó Đức Maria được xưng là Mẹ Thiên Chúa, đây là lời cầu nguyện tuyệt vời về niềm tin vào Đức Maria: Sub Tuum Praesdium, một kinh có trước Công Đồng Êphêsô. Chúng ta kết thúc suy tư hôm nay về Mẹ với kinh này: “Chúng con trông cậy rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời, xin chớ chê chớ bỏ lời chúng con nguyện, trong con gian nan khố khó, Đức Nữ Đồng Trinh hiển vinh sáng láng, hằng chữa chúng con cho khỏi mọi sự dữ.” Amen!

ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An

http://nguoinguphu.blogspot.com/
 
Thứ Năm 31/12: Ngôi Lời đã làm người. Suy Niệm của Lm. Giuse Nguyễn Xuân Hiếu, CSsR
Giáo Hội Năm Châu
18:11 29/12/2020


Video bắt đầu lúc 7g tối 30/12/2020

PHÚC ÂM: Ga 1, 1-18

“Ngôi Lời đã làm người”.

Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thuỷ. Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.

Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng. Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.

Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.

Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: “Đây là Đấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi”. Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác.

Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Đức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Đấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.

Đó là lời Chúa.
 
Ngôi sao của Người
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
22:20 29/12/2020
LỄ HIỂN LINH
“Ngôi sao của Người”

Hình như phía trên mọi Hang Đá Máng Cỏ đều có một ngôi sao. Đó là Ngôi Sao Dẫn Đường hướng về Máng Cỏ. Lễ Hiển Linh là lễ Ánh Sáng. Mầu nhiệm Ánh Sáng của lễ Hiển Linh được tỏ hiện qua ngôi sao hướng dẫn các Đạo Sĩ từ Đông Phương đến thờ lạy Chúa Hài Nhi.

Thế nhưng, làm sao một ngôi sao trên trời lại có thể như ngọn đèn đi trước dẫn đường, rồi dừng lại chính xác trên ngôi nhà nơi Hài Nhi đang ở? Rõ ràng ngôi sao đã trở thành biểu tượng cho ánh sáng đức tin làm cho dân ngoại nhận biết Chúa Giêsu là Vua, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Một khi đã gặp Ngài, đã tin vào Ngài thì người ta không trở lại con đường cũ nữa mà đi theo đường khác “đường sự thật, đường sự sống”. Bước đi trong ánh sáng định hướng thiêng liêng, con người luôn sống theo đường lối khôn ngoan của Thiên Chúa.

“Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”. Ngôi sao của Thiên Chúa là ánh sao mà Người dùng để lôi kéo thụ tạo đến với Người. Ánh sao ở đây là lời mời gọi, một sự gợi mở, một sức hút, một sự chỉ đường. Chỉ có “Ngôi sao của Người” mới dẫn con người đến để gặp Thiên Chúa.

Các nhà chiêm tinh Đông Phương nhìn thấy ngôi sao xuất hiện và lên đường tìm kiếm. Họ đã tìm ra Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ hang lừa. Đó chính là vị Cứu tinh mà Israel từ lâu mong đợi. Vị Cứu tinh chào đời tại Bêlem như lời Ngôn sứ Mikha đã loan báo “Phần ngươi, hỡi Bêlem Epratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị lãnh tụ chăn dắt dân Israel” (Mk 5,1). Các nhà chiêm tinh vui mừng tôn kính dâng lễ vật bái thờ Người.

Ngôi sao xuất hiện ở phương Đông được ông Bilơam tiên báo: “Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Các nhà chiêm tinh đến từ vùng đất phương Đông, quê hương của Bilơam. Ngôi sao họ nhìn thấy vốn là dấu hiệu chỉ vương quyền. Ngôi sao nhắc lại lời sấm chúc phúc của Bilơam thuở xưa nói về triều đại Đavít và về chính Đấng Mêsia. Một ngôi sao lạ ở phương Đông xuất hiện trên bầu trời đầy sao.Các nhà chiêm tinh nhận ra ngôi sao lạ. Họ tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, lên đường tìm kiếm. Con đường đi của họ dẫn qua sa mạc, bụi bặm, nóng bức và giá lạnh. Ðó là một con đường đầy chông gai khó khăn, vất vả và nguy hiểm. Họ luôn nhìn lên ngôi sao dẫn đường và tiến bước. Khi đến thủ đô Giêrusalem, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của vị tân vuơng.

Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối liền triệu tập các thượng tế và kinh sư lại hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Chuyện đang công khai, Hêrôđê chuyển thành bí mật: “bí mật vời các nhà chiêm tinh, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, rồi phái các vị ấy đi, căn dặn: xin đi dò hỏi tường tận… khi tìm thấy xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy người”. Tất cả những động từ trên đây cho thấy cáo già Hêrôđê đang tìm cách biến các nhà chiêm tinh thành gián điệp phục vụ cho âm mưu đen tối của ông. Hêrôđê vốn gian hùng, sánh được với Tào Tháo của Trung Hoa. Hêrôđê mưu toan làm cho các nhà chiêm tinh thành mật thám của mình, để dò biết đích xác mà giết vua người Do thái mới sinh. Nhưng Thiên Chúa can thiệp để các nhà chiêm tinh đến thờ lạy “vua dân Do thái mới sinh” và ra về an toàn.

Các đạo sĩ ra đi “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại”. Họ mừng rỡ vô cùng. Họ gặp Hài Nhi, liền sấp mình bái lạy, với lòng thành họ dâng tiến lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược.“Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi đường khác mà về xứ mình”.

Câu chuyện Phúc âm tuyệt đẹp. Ba nhà chiêm tinh đi tìm Đấng Cứu Thế theo ánh sao lạ. Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây lửa để dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về Đất hứa thì Người cũng có thể dùng ngôi sao lạ để dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh.

Nhưng khi vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ chờ đợi thì dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm. Các thượng tế, các kinh sư có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế nhưng họ chẳng cất bước đến Bêlem. Còn Hêrôđê thì hốt hoảng bối rối, sợ ngai vàng bị lung lay nên tìm cách loại trừ với mưu mô cạm bẫy. Chỉ có các nhà chiêm tinh hăng hái lên đường lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ đã làm tất cả miễn sao gặp được Đấng Cứu Tinh. Cho dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lâu đài điện ngọc nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với cả tấm lòng thành.

Phụng vụ đọc câu chuyện tuyệt đẹp này trong ngày Lễ Hiển Linh “Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại”. Các nhà chiêm tinh là dân ngoại, họ đại diện cho mọi dân tộc, họ khao khát tìm kiếm ơn cứu độ. Sau này Chúa Giêsu đã xác định: “từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop trong nước trời” (Mt 8,11). Các thượng tế và các kinh sư thông hiểu Thánh Kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong sách vở nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những người chuyên nghiên cứu sách vở đầy sự uyên bác thông thái, nếu không lên đường, không thao thức tìm kiếm thì chẳng bao giờ gặp được Thiên Chúa.Trái lại, những tâm hồn đơn sơ, khó nghèo như các mục đồng, hay cởi mở và khao khát chân lý như các nhà chiêm tinh lại được diễm phúc gặp gỡ Người vì họ đã dám mạo hiểm lên đường tìm kiếm, bước đi theo các dấu chỉ.

Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh Kinh, qua sự hiện diện của dân Chúa là Giáo Hội, qua các Bí tích. Muốn gặp được Thiên Chúa, nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go, những hiểm nguy cạm bẫy, vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng mến.

Ngày nay, không có ngôi sao Đông phương nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa. Thế nhưng, “Ngôi sao của Người” có thể là các Thánh, là Giáo hội, là các giáo hoàng, các giám mục, các linh mục, là tu sĩ, là cha mẹ, là những người thầy, là những người bạn, những người giúp chúng ta đến với Thiên Chúa. Những ánh sao này phản chiếu ánh sáng từ một Vì Sao đích thực: Đức Kitô, và nó chỉ lung linh khi nó dẫn đường đến với Thiên Chúa mà thôi.
Mẹ thánh Têrêxa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao la là một vì sao chiếu sáng trên vòm trời. Chúa muốn chúng ta là ánh sáng chiếu tỏa cho mọi người chung quanh: “Các con là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14). Kitô hữu trở nên ánh sao tình yêu, ánh sao tha thứ, ánh sao hy vọng, ánh sao công bình, ánh sao bác ái, ánh sao đạo đức, góp phần dẫn đường cho người khác đến với Chúa.

Đặc biệt, chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi". Bước đi trong ánh sáng Lời Chúa, chúng ta sẽ trở nên ngôi sao dẫn đường cho nhiều người tìm đến Thiên Chúa. Thánh Phaolô mời gọi : “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15).Tại sao các Kitô hữu được gọi là các vì sao? Thánh Gioan giải thích : “Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Người muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác nữa, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,18). Cho nên cách sống yêu thương của người Kitô hữu làm cho người ta nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy.

“Ngôi sao của Người” dẫn các nhà chiêm tinh đến gặp Chúa Hài Nhi rồi tiến dâng lễ vật. Chúng ta nhờ ánh sáng Lời Chúa soi dẫn trên hành trình cuộc đời. Lời Chúa là ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp chúng ta sáng lên niềm tin. “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11,28), Chúa Giêsu chỉ cho thấy sự cao cả đích thực của Đức Maria, như thế mở ra cho mỗi người chúng ta khả năng sống mối phúc phát sinh từ Lời được lắng nghe và đem ra thực hành. (x.Verbum Domini, số 124).

“Ngôi sao của Người” dẫn chúng ta đi vào con đường chói ngời ngọn lửa đức mến. Bước theo ánh sáng “Ngôi Sao của Người”, người Kitô hữu chiếu tỏa các giá trị Phúc Âm giữa lòng trần thế. Loan báo Phúc Âm là loan báo tình yêu thương, là xây dựng “nền văn minh tình thương”. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những “Ngôi sao của Người” cụ thể soi đường truyền giáo trong thời đại hôm nay.
 
Cam kết đến mức có thể
Lm Minh Anh
22:35 29/12/2020
CAM KẾT ĐẾN MỨC CÓ THỂ
“Bà không bao giờ rời khỏi đền thờ”.

Kính thưa Anh Chị em,

Thiên Chúa ban cho mỗi người một ơn gọi; qua ơn gọi đó, sống trọn ơn gọi đó, chúng ta nên thánh. Vì thế, có thể nói, đó là một ơn gọi thánh. Tất cả chúng ta được gọi để chu toàn ơn gọi của mình với lòng quảng đại và ‘cam kết đến mức có thể’. Lời Chúa hôm nay giới thiệu cho chúng ta một ơn gọi lạ lùng đến kinh ngạc, ơn gọi của bà Anna, “Bà không bao giờ rời khỏi đền thờ”.

John Henry Newman, thánh Hồng Y lỗi lạc được tôn phong vào tháng 10 vừa qua, lỗi lạc đến nỗi được gọi là “Giáo phụ vắng mặt của Vaticanô II”; ngài đã nói một câu nổi tiếng, “Thiên Chúa đã tạo ra tôi để làm một số công việc nhất định cho Ngài; Ngài giao cho tôi mà không giao cho người khác. Tôi có sứ vụ của tôi. Có thể không bao giờ tôi biết công việc đó là gì trong cuộc đời này, nhưng đời sau,Ngàisẽ cho tôi biết. Tôi là một mắt xích trong một chuỗi, một sợi dây kết nối giữa những con người; với Ngài, tôi sẽ ‘cam kết đến mức có thể’”.

Tin Mừng hôm nay nói đến nữ tiên tri Anna, người được giao một nhiệm vụ hết sức độc đáo, có thể nói là có một không hai. Khi còn trẻ, bà đã kết hôn được bảy năm; chồng mất, bà thủ tiết, đến nay, đã tám mươi bốn tuổi. Trong những thập kỷ đời bà, Kinh Thánh tiết lộ, “Bà không bao giờ rời khỏi đền thánh, nhưng thờ phượng Chúa cả đêm lẫn ngày bằng việc ăn chay và cầu nguyện”. Thật là một ơn gọi lạ thường, không thể tin được; một ơn gọi vốn chỉ đến từ Thiên Chúa!

Ơn gọi duy nhất của Anna là trở thành một nữ tiên tri; bà đã thực hiện ơn gọi này bằng cách cho phép cả cuộc đời mình trở thành biểu tượng ơn gọi của mọi Kitô hữu. Cuộc đời của bà ‘cam kết đến mức có thể’ trong chay tịnh, nguyện cầu và nhất là, sống trong sự mong đợi gặp gỡ Đấng đã gọi bà. Phải, Thiên Chúa đã gọi bà!Bà đã sống trọn vẹn ơn gọi của mình; bà đã chờ đợi năm này qua năm khác, thập kỷ này qua thập kỷ khác… cho khoảnh khắc duy nhất và cuối cùng của một cuộc đời. Đó là cuộc gặp gỡ của bà với Chúa Giêsu Hài Đồng trong đền thờ.

Cuộc đời của nữ ngôn sứ Anna cho biết, mỗi chúng ta phải sống cuộc sống mình theo cách mà mục tiêu cuối cùng, là liên lỉ chuẩn bị cho khoảnh khắc gặp Chúa Giêsu trong cung thánh đền thờ Vương Quốc Ngài. Khác với Anna, hầu hết chúng ta không được mời gọi chay tịnh theo nghĩa đen và cầu nguyện mỗi ngày trong các nhà tĩnh tâm hay các đền thờ; nhưng như Anna, chúng ta nuôi dưỡng một đời sống nội tâm trong yêu mến, đêm ngày cầu nguyện và sám hối; đồng thời, hướng mọi hành động trong cuộc sống mình đến sự ngợi khen, vinh danh Chúa và trông đợi Người, Đấng cứu rỗi linh hồn mình. Mặc dù cách thức mà ơn gọi phổ quát này được thực hiện sẽ là duy nhất đối với mỗi người và mọi người; nhưng dẫu sao, cuộc đời của bà Anna cũng là một lời tiên tri tượng trưng cho mọi ơn gọi mà mỗi chúng ta sẽ ‘cam kết đến mức có thể’.

Mark Twain, tinh tú đầu tiên của bầu trời văn học hiện đại Mỹ,vào cuối đời đã suy tư về con người thế này, “Có vô số người được sinh ra; họ lao động, đổ mồ hôi và đấu tranh; họ cãi cọ, mắng mỏ và đánh nhau; họ tranh giành những lợi thế nhỏ nhặt hơn thua; tuổi tác chồng chất, bệnh tật đi kèm. Những người họ yêu thương bị tước đoạt khỏi họ và niềm vui cuộc sống trở thành nỗi đau nhức buốt. Cuối cùng thì ‘sự giải thoát’ cũng xuất hiện, quà tặng duy nhất mà trái đất từng dành cho họ; và họ biến mất khỏi một thế giới mà ở đó, họ không để lại một hậu quả nào; một thế giới sẽ than thở họ một ngày và lãng quên họ mãi mãi”.

Anh Chị em,

Sẽ không gì đáng thương hơn cho một kiếp người theo suy tư bi quan của Mark Twain. Không! Kitô hữu có cái nhìn hoàn toàn ngược lại. Thiên Chúa là tình yêu, Người tạo dựng mỗi người để họ sống đời đời; trong mọi đấng bậc,mỗi người làm vinh danh Chúa theo cách thức và khả năng Chúa ban. Sống trọn ơn gọi đó, chúng ta sẽ nên thánh và không bao giờ chết. Qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa không mời gọi chúng ta đêm ngày ở lại đền thờ mà chúc tụng Người như bà Anna, nhưng Người cho Con Một đến cư ngụ trong lòng chúng ta, chúng ta là đền thờ của Ngài. Ngài ước mong chúng ta không ngừng vào lại lòng mình để yêu mến, chúc tụng và thờ lạy Ngài. Mặc cho dòng đời lắm gian truân, chúng ta có nhớ đến Ngài hay không thì Ngài vẫn ở trong chúng ta; chúng ta hãy ‘cam kết đến mức có thể’ sống trọn ơn gọi thánh đó, ơn gọi cho một cuộc hẹn cuối cùng, cuộc hẹn với Đấng yêu thương, để cuối cùng, mỗi chúng ta được ở vĩnh viễnvới Người.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa về chứng tá hùng hồn của nữ ngôn sứ Anna; xin cho con ngày càng thấy rõ sự độc đáo trong ơn gọi của con, hầu con ‘cam kết đến mức có thể’ sống triệt để ơn gọi của mình là cống hiến hoàn toàn cho Chúa, để ngày kia, con được gặp Ngài”, Amen.

(Tgp. Huế)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Trong Thánh lễ Đêm Giáng sinh, tổng thống Hồi giáo của Iraq kêu gọi bảo vệ các Kitô hữu
Đặng Tự Do
04:12 29/12/2020


Tổng thống theo Hồi giáo Sunni của Iraq, Barham Salih, đã tham dự Thánh lễ Đêm Giáng sinh hôm thứ Năm, 24 tháng 12, và nói với các tín hữu rằng chính phủ nước này phải nỗ lực hết sức để bảo vệ các Kitô hữu và giúp họ quay trở lại, đồng thời còn phải kiềm chế bạo lực cực đoan và diệt trừ tham nhũng trong chính quyền.

Phát biểu tại nhà thờ chính tòa Thánh Giuse ở Baghdad ngày 24 tháng 12, Salih cho biết chính phủ “phải thực thi những nỗ lực nghiêm túc để tạo điều kiện cho các tín hữu Kitô Iraq trở về và sống một cuộc sống an toàn và đúng phẩm giá ở quê hương của họ. “

“Các quyền tôn giáo và văn hóa của họ phải được bảo vệ. Như lịch sử của đất nước cho thấy, họ là một phần chính và quan trọng của dân tộc Iraq”, ông nói và lưu ý rằng Iraq là một quốc gia đa dạng, và nếu không có các tín hữu Kitô, “sức mạnh mang lại cho chúng ta bởi sự đa dạng về tôn giáo và sắc tộc của mình, chắc chắn sẽ mất đi”.

Ông Salih đã phát biểu như trên vài ngày sau khi quốc hội Iraq công bố quyết định tuyên bố Giáng sinh là ngày lễ quốc gia hàng năm.

Trước đây, các Kitô hữu đã được nghỉ vào ngày 25 tháng 12 nhưng đây không được coi là ngày lễ đối với phần còn lại của quốc gia nơi đa số theo đạo Hồi. Giáng sinh đã được cho phép nghỉ lễ “một lần” vào năm 2008, nhưng quyết định đó không được gia hạn.

Đây có thể xem là kết quả trực tiếp từ quyết định của Đức Thánh Cha Phanxicô đến thăm Iraq từ ngày 5 đến ngày 8 tháng 3 năm 2021. Quyết định về lễ Giáng sinh và sự hiện diện của Salih trong Thánh lễ chắc chắn là những dấu hiệu thiện chí trước chuyến đi của Giáo hoàng. Những điều này còn có thể gửi một thông điệp tới các tín hữu Kitô Iraq. Sau nhiều thập kỷ bị phân biệt đối xử và ngược đãi, họ có thể có lý do để hy vọng.

Theo hiến pháp của Iraq, chức vụ tổng thống chủ yếu là một vai trò biểu tượng với quyền lực thực sự được trao cho quốc hội và thủ tướng.


Source:Crux
 
Buổi hòa nhạc mừng Chúa Giáng Sinh bên trong nhà thờ chính tòa Notre Dame de Paris
Đặng Tự Do
04:13 29/12/2020


Đội mũ cứng và mặc quần áo bảo hộ, các thành viên của dàn hợp xướng Nhà thờ Đức Bà lần đầu tiên hát bên trong một địa danh có từ thời Trung cổ của Paris kể từ sau trận hỏa hoạn kinh hoàng năm ngoái. Đó là một buổi hòa nhạc đêm Giáng sinh thật đặc biệt.

Cùng với một nghệ sĩ chơi đàn viôlông nổi tiếng và với một cây đàn phong cầm thuê bên ngoài, các ca sĩ biểu diễn bên dưới các cửa sổ kính màu giữa một nhà thờ tối om, nơi đang chuyển từ các hoạt động dọn dẹp nguy hiểm bấp bênh trở thành một địa điểm tái thiết lớn. Ban đầu dàn hợp xướng dự định bao gồm 20 ca sĩ nhưng vì lý do an toàn, họ giới hạn trong phạm vi tám người, đều là các ca sĩ trứ danh của Kinh Thành Ánh Sáng

Theo một quy định về phòng dịch trong nhà của chính quyền Pháp nhằm ngăn chặn sự lây lan của vi rút, các thành viên dàn hợp xướng đã phải đứng cách xa nhau để có thể tháo các khẩu trang y tế ra khi hát.

Buổi hòa nhạc - bao gồm các bài hát Giáng Sinh truyền thống như “Silent Night” bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, “The Hymn of the Angels,” và thậm chí cả “Jingle Bells” - đã được thu âm vào đầu tháng này và phát sóng ngay trước nửa đêm thứ Năm. Công chúng không được phép tham dự và dự kiến sẽ không được nhìn thấy bên trong nhà thờ Đức Bà cho đến ít nhất là vào năm 2024.

Giáo phận gọi đây là một “buổi hòa nhạc mang tính biểu tượng cao… được đánh dấu bằng cảm xúc và hy vọng,” và kỷ niệm một “di sản âm nhạc có từ thời Trung cổ”.

Đức Tổng Giám Mục Michel Aupetit của Paris đã cử hành các buổi lễ đêm Giáng sinh hôm thứ Năm tại Nhà thờ Saint-Germain-l'Auxerrois đối diện với Bảo tàng Louvre thay vì tại Nhà thờ Đức Bà như truyền thống.

Dàn hợp xướng Notre Dame từng tổ chức 60 buổi hòa nhạc mỗi năm bên trong nhà thờ nhưng kể từ đó đã phải lưu động, di chuyển giữa các nhà thờ khác ở Paris.

Ngôi nhà thờ được xây từ thế kỷ 12 đang được nâng cấp vào thời điểm xảy ra vụ cháy hôm 15 tháng Tư, 2019. Lửa phá hủy mái nhà và làm sụp ngọn tháp cao nhất của nó. Khi không có mái để giữ ổn định một cấu trúc với toàn là những tảng đá lớn, mái vòm của nhà thờ là yếu tố sống còn để giữ nhà thờ chính tòa đứng vững. May mắn, hiện nay mái vòm nhà thờ đã được củng cố.


Source:Crux
 
Tuyên bố long trọng của Tổng thống Donald Trump về quyền tự do tín ngưỡng tại Hoa Kỳ và toàn thế giới
Bản dịch Việt Ngữ của J.B. Đặng Minh An
17:24 29/12/2020

Thánh Thomas Becket, còn được gọi là Thánh Thomas thành Canterbury, hay Thánh Thomas thành Luân Đôn sinh ngày 21 tháng 12 năm 1119 và qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1170, lúc mới 51 tuổi. Ngài là Tổng giám mục Canterbury từ năm 1162 cho đến bị giết vào năm 1170. Lúc bấy giờ tại Anh chỉ có Giáo Hội Công Giáo. Mãi đến năm 1534, tức là 364 năm sau đó, mới xuất hiện Anh Giáo.

Ngài được cả Giáo Hội Công Giáo và Anh giáo tôn kính là vị thánh tử đạo. Ngài xung đột với Vua Anh Henry Đệ Nhị vì nhà vua xen vào công việc nội bộ và kỷ cương của Giáo Hội. Ngay sau khi qua đời, ngài được Đức Giáo Hoàng Alexander Đệ Tam tuyên thánh.

Ngày 29 tháng 12 năm 1170, bốn hiệp sĩ của triều đình đã đến nhà thờ chính tòa Canterbury buộc ngài phải chấp nhận các yêu sách của nhà vua. Khi ngài từ chối, cả 4 tên đều chém ngài nhiều nhát và chặt đầu ngài bên trong nhà thờ khi ngài đang mặc áo lễ cử hành giờ kinh chiều.

Nhân kỷ niệm 850 năm cuộc tử đạo của Thánh Thomas Becket, Tổng thống Donald Trump đã ra một tuyên bố ca ngợi Thánh Thomas Becket và kêu gọi cải thiện tình trạng tự do tôn giáo trên toàn thế giới.

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Hôm nay là kỷ niệm 850 năm ngày Thánh Thomas Becket tử đạo vào ngày 29 tháng 12 năm 1170. Thánh Thomas Becket là một chính khách, một học giả, một chưởng lý, một linh mục, một tổng giám mục và là một con sư tử của tự do tôn giáo.

Trước khi Đại Hiến Chương Tự Do Magna Carta được soạn thảo, trước khi quyền tự do thực hành niềm tin tôn giáo được ghi nhận là quyền tự do đầu tiên của nước Mỹ trong Hiến pháp vinh quang của chúng ta, Thánh Thomas đã cống hiến cuộc đời mình để, như ngài đã nói, “Giáo hội sẽ đạt được tự do và yên hàn”.

Là con trai của một cảnh sát trưởng Luân Đôn và từng được nhà vua, là người đã giết ngài, mô tả là “một viên chức xuất thân thấp hèn”, Thánh Thomas Becket đã vươn lên trở thành nhà lãnh đạo Giáo Hội ở Anh. Khi triều đình cố gắng xâm phạm công việc của nhà Chúa thông qua Hiến pháp Clarendon, Thánh Thomas đã từ chối ký vào văn bản vi phạm. Khi Vua Henry Đệ Nhị giận dữ đe dọa sẽ giam giữ ngài vì dám khinh thường quyền lực hoàng gia và đặt câu hỏi tại sao vị giáo sĩ “nghèo và thấp hèn” này lại dám thách thức ông, Đức Tổng Giám Mục Becket đã trả lời “Chúa là Đấng tối cao, trên cả các vị vua” và “chúng ta phải vâng lời Chúa hơn là người ta”.

Vì Thánh Thomas không đồng ý để Giáo Hội phụ thuộc vào nhà nước, ngài bị buộc phải bỏ lại tất cả tài sản của mình và ra nước ngoài lưu vong. Nhiều năm sau đó, sau sự can thiệp của Đức Giáo Hoàng, Thánh Thomas được phép quay trở lại - và tiếp tục chống lại sự can thiệp áp bức của nhà vua vào đời sống của Giáo Hội. Cuối cùng, nhà vua đã phẫn nộ trước sự bảo vệ đức tin vững chắc của Thánh Thomas Becket, và nhà vua đã điên tiết thốt lên rằng: “Không ai loại bỏ giùm tôi cái ông linh mục gây quá nhiều rắc rối này à?”

Các hiệp sĩ của nhà vua nghe lệnh và cưỡi ngựa đến nhà thờ chính tòa Canterbury để đưa cho Thánh Thomas Becket một tối hậu thư: nhượng bộ các yêu cầu của nhà vua hoặc là chết. Câu trả lời của Thánh Thomas vang vọng khắp thế giới và qua nhiều thời đại. Những lời cuối cùng của ngài trên trái đất này là: “Vì danh Chúa Giêsu và để bảo vệ Giáo hội, tôi sẵn sàng đón nhận cái chết”. Trong khi đang mặc áo lễ, Thánh Thomas đã bị đốn ngã khi đứng bên trong các bức tường của nhà thờ mình.

Cuộc tử đạo của Thánh Thomas Becket đã thay đổi tiến trình lịch sử. Cuối cùng, nó dẫn đến nhiều hạn chế hiến pháp về quyền lực của nhà nước đối với Giáo hội trên khắp Tây phương. Ở Anh, vụ sát hại Thánh Thomas đã dẫn đến Đại Hiến Chương Tự Do Magna Carta 45 năm sau đó, với quy định rằng: “Giáo Hội tại Anh sẽ được tự do, và các quyền của Giáo Hội sẽ không bị hạn chế và quyền tự do của Giáo Hội không bị ngăn trở”.

Khi Đức Tổng Giám Mục từ chối không cho nhà vua can thiệp vào công việc của Giáo hội, Thánh Thomas Becket đã đứng ở giao lộ giữa Giáo Hội và nhà nước. Lập trường đó, sau nhiều thế kỷ xảy ra các áp bức tôn giáo do nhà nước bảo trợ và các cuộc chiến tranh tôn giáo khắp Âu châu, cuối cùng đã dẫn đến việc thiết lập tự do tôn giáo ở Tân Thế giới. Chính vì những người vĩ đại như Thánh Thomas Becket mà Tổng thống Mỹ đầu tiên George Washington có thể tuyên bố hơn 600 năm sau rằng, tại Hoa Kỳ, “Tất cả mọi người đều có quyền tự do lương tâm và quyền công dân như nhau” và “giờ đây không còn có thể đề cập đến một sự khoan dung, như thể nhờ ơn xá của một lớp người, mà một lớp người khác được hưởng việc thực hiện các quyền tự nhiên vốn có của họ”.

Cái chết của Thánh Thomas Becket như một lời nhắc nhở mạnh mẽ và bất hủ đối với mọi người Mỹ rằng sự tự do của chúng ta không bị bách hại tôn giáo không phải là điều xa xỉ hay là một tình cờ của lịch sử, nhưng là một yếu tố thiết yếu trong sự tự do của chúng ta. Đó là kho báu và di sản vô giá của chúng ta. Và nó đã được mua bằng máu của các vị tử đạo.

Là người Mỹ, trước hết, chúng ta hiệp nhất với nhau bởi niềm tin rằng “nổi loạn chống lại những tên hôn quân tàn bạo là vâng lời Thiên Chúa” và bảo vệ quyền tự do quan trọng hơn chính mạng sống mình. Nếu chúng ta tiếp tục là vùng đất của tự do, không có quan chức chính phủ nào, không có thống đốc nào, không có quan chức nào, không có thẩm phán nào và không có nhà lập pháp nào lại được phép ra lệnh rằng đâu mới là chính thống trong các vấn đề tôn giáo, hoặc đòi hỏi tín hữu các tôn giáo phải vi phạm lương tâm của họ. Để xây dựng một xã hội hòa bình, thịnh vượng và đạo đức không có quyền nào cơ bản hơn là quyền được tuân theo các niềm tin tôn giáo. Như tôi đã tuyên bố tại Quảng trường Krasiński ở Warsaw, Ba Lan vào ngày 6 tháng 7 năm 2017, người dân Mỹ và người dân thế giới vẫn tiếp tục kêu lên: “Chúng tôi muốn có Chúa”.

Vào ngày này, chúng ta kỷ niệm và tôn kính lập trường can đảm của Thánh Thomas Becket đối với quyền tự do tôn giáo và chúng ta tái khẳng định lời kêu gọi chấm dứt sự đàn áp tôn giáo trên toàn thế giới. Trong bài phát biểu lịch sử của tôi tại Liên Hợp Quốc năm ngoái, tôi đã nói rõ rằng nước Mỹ đứng về phía những tín hữu ở mọi quốc gia, những người chỉ yêu cầu quyền tự do để sống theo đức tin trong trái tim của họ. Tôi cũng tuyên bố rằng các quan chức toàn cầu hoàn toàn không có quyền tấn công vào chủ quyền của các quốc gia mong muốn bảo vệ sự sống vô tội, và đang phản ánh niềm tin của Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác rằng mọi đứa trẻ - sinh ra hay chưa chào đời - đều là ân sủng thánh thiêng từ Thiên Chúa. Đầu năm nay, tôi đã ký Sắc Lệnh Ưu Tiên Tự Do Tôn Giáo như một khía cạnh cốt lõi trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Chúng tôi đã chỉ đạo mọi Đại sứ - và hơn 13,000 viên chức và chuyên viên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ - tại hơn 195 quốc gia phải thúc đẩy, bảo vệ và ủng hộ tự do tôn giáo như một trụ cột chính của nền ngoại giao Hoa Kỳ.

Chúng tôi cầu nguyện cho tín hữu các tôn giáo ở khắp mọi nơi đang bị bách hại vì đức tin của họ. Chúng tôi đặc biệt cầu nguyện cho những mục tử dũng cảm và đầy cảm hứng của họ - như Đức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân ở Hương Cảng và Mục sư Vương Nghị ở Thành Đô - là những chứng nhân hy vọng không mệt mỏi.

Để tôn vinh ký ức về Thánh Thomas Becket, các tội ác chống lại những người có đức tin phải được chấm dứt, các tù nhân lương tâm phải được trả tự do, các luật hạn chế quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng phải bị bãi bỏ, và những người dễ bị tổn thương, những người vô phương tự vệ và những người bị áp bức phải được bảo vệ. Sự bạo ngược và giết người làm chấn động lương tâm trong thời Trung Cổ không bao giờ được phép xảy ra nữa. Chừng nào nước Mỹ còn đứng vững, chúng tôi sẽ luôn bảo vệ quyền tự do tôn giáo.

Một xã hội không có tôn giáo không thể thịnh vượng. Một quốc gia không có đức tin thì không thể trường tồn - bởi vì công lý, sự tốt lành và hòa bình không thể thắng nếu không có ân sủng của Thiên Chúa.

VÌ THẾ, GIỜ ĐÂY, TÔI, DONALD J. TRUMP, Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, với thẩm quyền được Hiến pháp và luật pháp Hoa Kỳ trao cho tôi, xin tuyên bố ngày 29 tháng 12 năm 2020 là ngày kỷ niệm 850 năm về cuộc tử đạo của Thánh Thomas Becket. Tôi mời người dân Hoa Kỳ cử hành ngày này tại các trường học, nhà thờ và các địa điểm tụ họp thông thường với các nghi lễ thích hợp để tưởng nhớ cuộc đời và di sản của Thánh Thomas Becket.

TÔI LONG TRỌNG XÁC NHẬN, tôi đã ký tuyên bố này vào ngày 28 tháng 12 này, vào năm thứ hai nghìn hai mươi của Chúa chúng ta, và cũng là năm thứ hai trăm bốn mươi lăm ngày Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.

Tổng thống Donald J. Trump


Source:The White House
 
Thủ đoạn của các phương tiện truyền thông về dự luật hợp pháp hóa phá thai ở quê hương Đức Giáo Hoàng
Đặng Tự Do
19:48 29/12/2020
Ở lối vào Quốc hội Á Căn Đình là một tấm bảng nhắc nhở các nhà lập pháp rằng Đức Mẹ Lujan là vị thánh bảo trợ của các đảng chính trị của đất nước.

Khi Thượng viện Á Căn Đình chuẩn bị bỏ phiếu về dự luật hợp pháp hóa phá thai, Giáo Hội Công Giáo đã hợp tác với những anh chị em Tin lành để chống lại dự luật này.

Dự luật, nhằm hợp pháp hóa việc phá thai tự nguyện trong tối đa 14 tuần, đã được Hạ viện thông qua vào ngày 11 tháng 12 và đang được thảo luận và biểu quyết tại Thượng viện từ hôm thứ Ba 29 tháng 12.

Những hình ảnh quý vị và anh chị em đang xem thấy đây là từ thông tấn xã AFP, một trong rất ít các hãng tin có các hình ảnh của các Kitô hữu biểu tình chống lại dự luật phá thai này. Nhiều phương tiện truyền thông khác đang áp dụng cùng một chính sách như họ đã làm trong cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ vừa qua. Trên các tờ như New York Times, Washington Post, CNN quý vị và anh chị em chỉ có thể nhìn thấy cảnh các phụ nữ dàn dụa nước mắt, mừng rỡ vì sắp được tự do phá thai. Thông điệp của họ là toàn dân Á Căn Đình đang ủng hộ phá thai. Đó là một điều sai sự thật.


Hai năm trước, một dự luật tương tự đã thông qua ở Hạ viện nhưng đã bị đánh bại tại Thượng viện sau một chiến dịch kiên quyết của cả người Công Giáo và người Tin lành. Cho đến nay, tại quê hương của Đức Giáo Hoàng, phá thai chỉ được phép trong trường hợp người phụ nữ bị hiếp dâm hay sinh mạng của thai phụ gặp nguy hiểm.

Hiến pháp của Á Căn Đình bảo đảm quyền tự do tôn giáo. Một cuộc cải cách năm 1994 đã loại bỏ yêu cầu tổng thống phải là người Công Giáo.

Tuy nhiên, hiến pháp Á Căn Đình vẫn đề cập đến Chúa trong phần mở đầu và điều thứ hai của hiến pháp bảo đảm sự ủng hộ của chính phủ đối với Giáo Hội Công Giáo.

“Giáo Hội Công Giáo ở Á Căn Đình có sự ảnh hưởng lớn. Có một nền văn hóa Công Giáo rất mạnh mẽ trong thế giới chính trị”, nhà xã hội học Fortunato Mallimaci, người đã viết một cuốn sách về điều mà ông cho là huyền thoại về chủ nghĩa thế tục ở Á Căn Đình, nói với AFP.

“Các nhóm tôn giáo tìm kiếm sự hỗ trợ của nhà nước và nhà nước, khi cảm thấy yếu kém, sẽ tìm kiếm sự hỗ trợ từ các nhóm tôn giáo”.

Theo một cuộc thăm dò năm 2019 của một cơ quan chính phủ, 62% người Á Căn Đình xác định mình là người Công Giáo, 18.9% cho mình là vô thần và 15.3% theo đạo Tin lành.

Trước cuộc tranh luận tại Thượng Viện Á Căn Đình, Đức Thánh Cha tweet:

Con Thiên Chúa sinh ra đã bị ruồng bỏ, để nói với chúng ta rằng mọi người bị ruồng bỏ đều là con Thiên Chúa. Ngài đến với thế giới khi mỗi đứa trẻ bước vào thế giới, yếu đuối và dễ bị tổn thương, để chúng ta có thể học cách chấp nhận những người yếu thế bằng tình yêu thương dịu dàng.




Source:AFP

 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Lễ Giáng Sinh tại giáo xứ Tây Ninh giáo hạt Tây Ninh – giáo phận Phú Cường
Giuse Nguyễn Hữu Lộc
10:15 29/12/2020
MỪNG CHÚA GIÁNG SINH 2020

Sau khi được đón nhận Hồng ân của Thiên Chúa bằng cơn mưa như trút nước trong đêm 24 vừa qua, chiều 25 tháng 12 năm 2020 Giáo xứ Tây Ninh cùng hân hoan vui mừng đón Đấng Cứu độ đã được sinh ra đời với Thánh lễ Mừng Chúa giánh sinh tại Lễ Đài trong khuôn viên giáo xứ, từ chiều đông đủ các vị trong Hội đồng mục vụ, các đoàn thể, giáo dân và các em thiếu nhi đã hội tụ khắp sân nhà thờ để tham dự thánh lễ.

Xem Hình

Dù rằng 17g30 thì thánh lễ mới bắt đầu, nhưng ngay từ lúc khi xế chiều thì Bà con giáo dân đã có mặt trước sân lễ đài, với các bài thánh Ca mừng Chúa giánh sinh được phát ra từ các Ca viên ca đoàn Giáo xứ đã làm cho mọi người rất phấn chấn bù lại cho cơn mưa chiều hôm qua. Không khí Giáng Sinh nhộn nhịp, vui tươi được nhân loại khám phá ra bởi một lẽ họ tìm thấy được sự an bình và trên hết là hồng ân cứu độ của Chúa Giêsu Hài Đồng nhờ vậy con người đến gần với nhau hơn.

Thánh lễ hôm nay do cha Chánh xứ Gioan Võ Hoàn Sinh chủ tế. Hiệp thông thánh lễ có đông đảo cộng đoàn dân Chúa khắp nơi hiện diện.

Trong bài chia sẻ Lời Chúa, Cha Gioan Võ Hoàn Sinh đã giúp cộng đoàn cảm nhận được những tâm tình mùa Giáng Sinh, bằng lời giảng hết sức thuyết phục cha đã gợi lại cho cộng đoàn hình ảnh quê hương chúng ta đặc biệt là những anh chị em tại miền Trung đang gánh chịu không biết bao nhiêu là tai ương, hoạn nạn do mưa lũ xảy ra… những nơi đang còn phải gồng mình chống Dịch Covid 19 đã phải hoãn lại tất cả mọi việc trong hoàn cảnh đang bị giản cách xã hội; hạn chế tiếp xúc với nhau..... tuy nhiên những người con dân đất Việt luôn mang trong lòng một tình người sâu nặng nên cơn lũ qua đi nhưng tình người ở lại… Để những lời chia sẻ thấm nhập vào lòng các tín hữu, Cha Gioan đã giới thiệu cho cộng đoàn những hình ảnh minh họa hết sức cảm động và vô cùng ý nghĩa: qua việc Bác ái chia sẽ khó khăn với những người anh em đang trong cơn hoạn nạn như thế đó, mùa Giáng sinh không chỉ đến bên ngoài rực rỡ lộng lẫy, nhưng mùa Gíáng sinh đối với những con người biết sẻ chia đau khổ, biết cho đi bằng tình người sao ấm áp vô cùng…

Hinh ảnh này đã được chúng ta nhìn thấy khi nhìn vào hang đá Belem đã thể hiện sự khó nghèo của Con Thiên Chúa giáng trần làm người: chỉ có một vài mục đồng đến viếng thăm, một vài con bò hà hơi sưởi ấm cho hài nhi Giê-su, tất cả chỉ có thế, nghèo nàn khổ cực, nhưng ở đó lại chứa chan ấm áp tình người.

Kết thúc thánh lễ, mọi người hân hoan ra về cùng đoàn tụ với gia đình bên những người thân yêu cùng nhau cảm tạ ơn Chúa, chia sẻ yêu thương trên bữa tiệc nhỏ dưới những ánh đèn lung linh, hay ở ngoài trời bên hang đá Bêlem lạnh lẽo nhưng ấm áp tình người.

Giuse Nguyễn Hữu Lộc
 
144 đôi cặp lặp lại lời hứa trong Lễ Thánh Gia tại giá xứ Tụy Hiền Tgp. Hà Nội
Giáo xứ Tụy Hiền
10:27 29/12/2020
Chúa nhật ngày 27 tháng 12 năm 2020, 144 đôi cặp gia đình đã quy tụ về nhà thờ Đông Mỹ xứ Tụy Hiền để cùng nhau cử hành Lễ Kính Thánh Gia Thất và lặp lại lời hứa mà họ đã công khai nói lên trong ngày lễ hôn phối của mình.

Xem Hình

Không khí của buổi lễ thật vui tương, nhưng cũng không kém phần sốt sắng, bởi trước đó họ đã được các soeurs Dòng Phao lô giúp tĩnh tâm, nhìn lại đời sống gia đình trong những tháng năm qua để cảm tạ hồng ân Thiên Chúa đã thương ban. Cùng lúc, họ hồi tâm tĩnh trí để cảm nghiệm lại được hạnh phúc và niềm vui họ đã từng có khi đứng trước Chúa và cộng đoàn bày tỏ tình yêu của mình.

Trong phần chia sẻ, Cha Giuse Vương Văn Đệ đã gợi nhớ cho họ cái tình yêu thủa ban đầu, khuyến khích họ vu đắp giữ gìn trong đời sống. Tiếp đến, các cặp đôi đã lặp lại lời hứa khi thành hôn và trao nhẫn cho nhau. Đây là cơ hội tốt nhất cho các đôi vợ làm ấm lại mối tình son sắt, đồng thời dâng lên Thiên Chúa và Mẹ Maria những tâm tình tạ ơn, vì đã được nâng đỡ, dắt dìu suốt quãng đường đời đã qua.

Các đôi hôn nhân hôm nay dường như tìm lại được bầu khí hạnh phúc của năm tháng cùng nhau sánh bước. Trên khuôn mặt mỗi người đầy tràn niềm vui, niềm phấn khởi cùng với những bộ trang phục được điểm những bông hoa cài áo, tay trong tay dắt con vào dự lê. Cộng đoàn đến tham dự thánh lễ đẩy đủ để cầu nguyện và chúc mừng cho các cặp đôi trong ngày trọng đại này.

BTTGx. Tụy Hiền
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Xin Thiên Chúa chúc lành cho trần gian
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
10:25 29/12/2020
Xin Thiên Chúa chúc lành cho trần gian

Năm 2020 sắp kết thúc, khi vòng chu kỳ 12 tháng, 365 ngày của năm 2020 đi vào lịch sử dĩ vãng lúc 0.00 giờ đêm ngày 31. Tháng Mười Hai sang ngày mới 01.01.2021.

Mỗi người, mỗi dân tộc đất nước có tầm nhìn, cảm nghiệm những sự việc xảy ra trong năm 2020 dưới những góc cạnh khác nhau, dưới những hình ảnh khác biệt. Nhưng hình ảnh đậm nét nổi bật xẩy đến cùng kéo dài trong suốt năm 2020 gây ra khủng hoảng đe dọa sức khoẻ đời sống nhân loại, cùng đưa đến hậu qủa tử vong cho hàng triệu người trên toàn thế giới là hình ảnh bệnh đại dịch vi trùng Corona!

Vi trùng bệnh dịch thình lình xuất hiện từ bên Wuhan nước Trung Hoa từ hồi cuối năm 2019, lây lan truyền nhiễm sang Âu châu, Mỹ châu, Phi châu và Đại dương châu. Không có một quốc gia đất nước nào, một quần đảo lớn bé nào ngoài biển cả mà không bị loại vi trùng Corona nguy hiểm này xâm lăng đe dọa gây bệnh nạn cùng đưa đến tử vong.

Vi trùng bệnh dịch nguy hiểm Corona như tia chớp từ trời thình lình ập đè xuống gây nên căng thẳng nín hơi ngừng thở, làm ngưng đình trệ tê liệt mọi sinh hoạt đời sống xã hội về mọi phương diện. Bao nhiêu chương trình dự định phải ngưng đình trệ lại hủy bỏ hết cho tới hôm nay ngày cuối năm và có thể còn kéo dài sang cả năm 2021 nữa.

Đời sống xã hội các nước lớn cũng như các nước nhỏ đều sống trong chao đảo mất phương hướng. Khắp nơi trên toàn cầu các chính phủ đưa ra những biện pháp Lockdown, Shutdown, giới hạn gặp gỡ gần nhau nơi gia đình, nơi công xưởng, nơi trường học, quán ăn, nơi tập thể thao, cửa hàng buôn bán…

Trên mặt đất ngoài đường, ngoài biển khơi cùng trên bầu trời ngưng lại tĩnh mịch lạ thường thưa thớt xe chạy, máy bay hầu như ngưng bay hoạt động không như trước nữa! Đời sống riêng tư và cả tôn giáo cũng không có luật trừ. Tất cả sống trong tình trạng Lockdown chung.

Hình ảnh các bệnh viện ngày đêm, như bên vùng Wuhan, bên vùng Bergamo nước Ý, bên Newyork Hoakỳ, bên London, bên Moscow…loan truyền đi những hình ảnh đen tối hãi hùng các bệnh nhân nằm la liệt với máy giúp trợ thở, các nhân viên y tế mặc quần áo phòng chống vi trùng lây lan kín mít từ đầu cho tới chân. Nhiều bệnh viện không còn đủ nhân viên y tế cùng giường chỗ điều trị cho các bệnh nhân. Tất cả hầu như chạm tới mức giới hạn, qúa tải. Vì bệnh nhân bị lây nhiễm nhập viện cần điều trị càng nhiều thêm.

Hình ảnh những bệnh viện dã chiến phải xây dựng cấp thời bên thành phố Wuhan cho hàng ngàn bệnh nhân bị vi trùng Corona lây nhiễm truyền cho có chỗ điều trị, loan đi sứ điệp khẩn trương hoảng loạn giống như trong chiến tranh hay trong thiên tai diễn xảy ra gây cảnh bị thương chết chóc.

Hình ảnh những đoàn xe nhà binh nối đuôi bên Bergamo chở hàng loạt quan tài người qúa cố đến đặt nằm chen sát cạnh nhau nơi các nhà xác, nơi thánh đường hồi tháng Ba mang đến bầu không khí u buồn ảm đạm kinh hoàng giống như thời chiến tranh.

Hình ảnh những xe đông lạnh xếp chất chứa thi thể những người qua đời bọc kín trong các túi bao hay quan tài bên New York, nghĩa trang chôn an táng hàng loạt tập thể những quan tài người qua đời bên Nam Mỹ…chiếu trên các kênh truyền hình khắp thế giới là tin tức hãi hùng đen tối u buồn thảm sầu bao phủ đời sống nhân loại.

Đức Giáo Hoàng Phanxico một mình bước đi thiểu não nơi công trường đền thờ Thánh Phero rộng mênh mông không một bóng người dưới trời mưa chiều tối ngày 27.03.2020, để cầu nguyện cử hành nghi thức ban phép lành Urbi et Orbi cho toàn thế giới giữa cơn đại dịch Corona, vẽ ra hình ảnh qúa ảm đạm đen tối cùng nói lên mức độ căng thẳng nguy hiểm đang đè xuống đời sống con người.

Hình ảnh này nói lên không chỉ về con thuyền Hội Thánh, nhưng cả về con thuyền đời sống nhân loại nọi chung như đang bị sóng to gío bão lũ lụt vùi dập chao đảo chênh vênh trên sóng nước biển cả! Nền đất dưới chân như đang bị dòng nước cuốn phá hủy làm cho hụt hẫng chới với…

Hình ảnh mọi người khắp nơi trên thế giới phải đeo khẩu trang bịt kín môi miệng, kín cả mũi thở, đứng ngồi giãn cách xa nhau 1,5 mét…không còn có hình ảnh môi miệng làn da mặt ánh mắt tỏ hiện tâm tình từ trong tâm hồn với nhau qua làn da thớ thịt môi miệng trên khuôn mặt nữa. Mọi người như xa lạ nhau, sợ nhau. Vì lo sợ bị vi trùng Corana lây lan truyền nhiễm từ người sang người. Biện pháp y tế vệ sinh khó khăn ngặt như vậy là nhằm bảo vệ sức khoẻ cho chính mỗi người và cùng cho người khác nữa.

Ông Bà, cha mẹ phải sống trong cách ly không được tới thăm con cháu, và con cháu cũng không được thăm, ôm hôn mừng rỡ tình thân ái cha mẹ ông bà mình. Hình ảnh này qúa đau buồn thương tâm cho gia đình cha mẹ ông bà con cháu. Họ sống gần nhau, nhưng lại phải xa nhau.

Những người qua đời vào mùa đại dịch Corona chết trong cô quạnh một mình. Thân nhân không có cơ hội đến từ biệt người qúa cố theo như tình tự lễ nghi lòng hiếu thảo con người trong văn hóa đạo đức xã hội. Vi trùng bệnh dịch Corona tàn phá gây nên cảnh đau thương tang tóc bi thảm cho đời sống nhân lọai.

Khắp nơi các thánh đường, nơi thờ tự trở nên vắng vẻ tẻ nhạt. Vì rất thưa thớt vắng bóng người giáo dân đến đọc kinh, hành hương dâng lễ. Và nếu được phép cũng chỉ có giới hạn về thời giờ, về sống lượng người được tham dự thánh lễ, cùng phải tuân giữ nghiêm ngặt luật y tế vệ sinh.

Hình ảnh đau buồn kinh hòang này không ai muốn có, như một người và cũng là suy nghĩ của mọi người nữa: Một năm như năm 2020 với biến cố đen tối kinh hoàng nguy hiểm đe dọa không ai muốn có nữa đâu!

Nhân loại muốn những hình ảnh hoàn cảnh nguy hiểm cảnh đen tối của năm 2020 đang đi vào giai đoạn kết thúc, vĩnh viễn đi vào lịch sử dĩ vãng, xin đừng bao giờ tái diễn hoành hành trở lại nữa. Và cầu mong sao năm 2021 mở ra chân trời con đường niềm hy vọng tươi sáng cho đời sống.

Chính phủ các nước truyền đi tín hiệu phải cấp thời dập dịch bằng mọi phương thế. Phải có phương pháp kiểm soát bệnh dịch không cho lây lan truyền nhiễm tiếp. Vì hơn khi nào hết sức khoẻ và bệnh nạn, sự sống và sự chết đe dọa con người rất thời sự sát cạnh gần nhau như lúc này, để cầm chừng thời gian chờ có thuốc trị bệnh và thuốc chủng ngừa.

Trong cơn khủng hoảng lo sợ đe dọa này, các tôn gíao, các hội đoàn truyền đi sứ điệp tinh thần niềm tin niềm hy vọng vào ngày mai có đốm lửa ánh sáng giúp nhân loại thoát vượt qua ra khỏi con đường hầm đen tối bệnh đại dịch Corona.

Và từ tháng 12. 2020 khoa học ngành y khoa đã chế tạo thành công thuốc chủng ngừa bệnh dịch Corona. Đốm lửa ánh sáng đã loé lên ở cuối con đường hầm đen tối, niềm hy vọng bừng lên cho đời sống. Nhưng cho tới khi, theo các nhà khoa học và chính trị khẳng định, đời sống trở lại bình thường, nhân loại còn trải qua một thời gian sống trong kỷ luật giới hạn chịu đựng nữa, khi đại đa số, hay tốt nhất hết mọi người được chích ngừa ngăn không để cho vi trùng Corona có sức hoành hành truyền nhiễm lây lan nữa.

Xin thắp sáng ngọn nến đức tin cùng chắp đôi tay cầu nguyện xin ơn bình an chữa lành của Thiên Chúa từ trời cao ban xuống cho toàn thể nhân lọai hôm nay và ngày mai, cho năm mới 2021, mau thoát khỏi con đường đe dọa đen tối do bệnh dịch Corona hoành hành gây ra.

Xin thắp ngọn nến niềm cậy trông cầu nguyện tưởng nhớ những người đã qua đời trong thiên tai bệnh dịch thời vi trùng Corona. Họ nhắm mắt xuôi hai tay ra đi về đời sau trong cô đơn buồn tủi. Họ không còn được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, vì họ không còn thở được nữa. Vi trùng Corona đã xâm chiếm phá hủy cơ quan buồng phổi mạch rễ hơi thở sự sống của họ do chính Thiên Chúa ban cho.

Họ đã ra đi thành người thiên cổ về phần thân xác. Nhưng linh hồn thiêng liêng của họ là hình ảnh của Thiên Chúa sống mãi bên Thiên Chúa, nơi là bến bờ quê hương của con người.

Lạy Chúa, xin chúc phúc lành cho trần gian nhân loại chúng con là công trình, là con cái tác phẩm do chính Chúa tạo thành. Xin ban cho nhân loại chúng con sự an ủi chữa lành sức khoẻ thể xác và trái tim tâm hồn.

Chính Chúa hằng nói với chúng con: Con đừng sợ! Nhưng đức tin của chúng con còn qúa dòn mỏng yếu kém, chao đảo. Nên chúng con hằng lo sợ hoảng loạn.

Lạy Chúa là Chúa tể càn khôn, xin đừng để chúng con chìm ngập trong những cơn sóng gió bão táp. Xin cứu giúp chúng con, như ngày xưa Chúa đã cứu giúp các môn đệ thoát khỏi cơn sóng gió ở biển hồ Galileo!( Mt 8,23-26).

Ngày cuối năm Dương lịch 2020
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
 
Văn Hóa
Chúa Giêsu trong lịch sử văn hóa, Chương Mười Bốn
Vũ Văn An
20:00 29/12/2020

Chúa Giêsu trong lịch sử văn hóa
Nguyên tác: Jaroslav Pelikan,
Bản tiếng Việt: Vũ Văn An





CHƯƠNG MƯỜI BỐN: Hoàng tử hòa bình

Một Con Trẻ được sinh ra cho chúng ta, một Bé Trai được ban cho chúng ta… và tên của Người sẽ được gọi là … Hoàng Tử Hòa Bình

Một trong các tên của Chúa Kitô được Luis de León, theo tinh thần Cải Cách Công Giáo, dùng đặt cho khảo luận của ông chính là “Hoàng Tử Hoà Bình” (1). Tên này vốn trích từ lời tiên tri Isaia (Is 9:6): “Một Con Trẻ được sinh ra cho chúng ta, một Bé Trai được ban cho chúng ta… và tên của Người sẽ được gọi là … Hoàng Tử Hòa Bình”. Tên này càng thích hợp trong thời Cải Cách cũng là thời của Chiến Tranh Tôn Giáo, để nhấn mạnh một lần nữa rằng Chúa Giêsu, trong tư cách Hoàng Tử Hòa Bình, luôn kêu gọi những người theo Người thuộc mọi thời đại hãy tìm kiếm con đường hòa bình chứ không phải con đường chiến tranh. Một trong các nhà lãnh đạo sau cùng của Phong Trào Cải Cách, John Amos Comenius (Jan Amos Komensky), người, cùng với giáo hội và dân tộc Moravian của ông, từng chịu nhiều hậu quả khốc liệt của Chiến Tranh Tôn Giáo, đã nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu Kitô là “Đấng giải phóng duy nhất có thực chất, giải thoát ta khỏi mọi ách nô lệ về linh hồn và thể xác (Ga 8:32-36). Vì các vị vua chúa trần gian không hề biết gì tới con đường hoà bình, nên thay vì vương trượng họ đã thu tích gươm, giáo, bánh xe, dây thừng, cung nỏ, tên lửa, và tù trưởng để làm mình được sợ chứ không được yêu. Đó có phải là điều được vị Thầy tốt nhất trong các vị thầy dạy dỗ không? Điều đó có phát xuất từ giáo huấn của Đấng đã không truyền cho những kẻ theo mình điều gì khác ngoài tình yêu, tình âu yếm và giúp đỡ lẫn nhau?” (2).

Câu hỏi này được nêu ra một cách hết sức thích hợp đối với mọi hậu duệ của Phong Trào Cải Cách, bất luận hệ phái, vào năm 1667, đúng 100 năm sau ngày Luther đưa ra 95 luận điểm của ông. Vì đúng lúc ấy, Phong Trào Cải Cách đã một lần nữa đặt ra rất nhiều câu hỏi tưởng đã được giải đáp vĩnh viễn từ lâu, trong đó có vấn đề chiến tranh.

Cũng như đối với nhiều câu hỏi khác, phong trào này giải đáp câu hỏi liên quan tới con người và giáo huấn Chúa Giêsu dạy gì về chiến tranh bằng cách đưa ra hàng loạt các học thuyết. Một số học thuyết ấy phản ảnh các quan điểm lịch sử về chiến tranh. Một số khác trình bày các quan điểm đổi mới hay các quan điểm thay thế hẳn. Hình loại học cổ điển ba chiều có tính lý thuyết về “Chúa Giêsu và chiến tranh” trong loạt học thuyết ấy có thể gom thành: lý thuyết “chiến tranh chính nghĩa”, lý thuyết “thập tự chinh” và ý thức hệ chủ hòa. Đối với mỗi loại lý thuyết này, họ đều đưa ra những lời của Chúa Giêsu để biện minh.

Trong thế kỷ 16, có lẽ tác phẩm được lưu hành rộng rãi nhất bênh vực cho lý thuyết chiến tranh chính nghĩa như là điều “vị Thầy tuyệt hảo nhất” đã giảng dạy chính là khảo luận của Luther. Khảo luận này dùng để trả lời cho vấn nạn được chính Luther nêu ra: “Liệu đức tin Kitô Giáo, một đức tin nhờ đó ta được kể là công chính trước mặt Thiên Chúa, có đi đôi với việc đi lính, tham chiến, đâm chém và giết chóc, cướp phá và thiêu đốt, như luật quân đội đòi ta phải làm đối với các kẻ thù của ta trong thời chiến không? Việc ấy có tội lỗi và bất chính không? Nó có đem lại cho ta một lương tâm xấu trước mặt Thiên Chúa không? Có phải Kitô hữu chỉ nên làm điều tốt và yêu thương, chứ đừng giết ai, đừng gây hại cho ai không?” (4).

Câu giải đáp của Luther nhất quán với cả nền thần học lẫn lý thuyết chính trị của ông. Nên nhớ: ông từng phân biệt hai vương quốc, vương quốc thiêng liêng của Chúa Kitô và vương quốc trần gian ở đời này, song song với việc ông phân biệt một đàng là chức vụ công một đàng là con người tư. Hai sự phân biệt ấy giúp ông cái khung cần thiết để ông giải quyết sự mâu thuẫn giữa nền đạo đức học tuyệt đối yêu thương được Chúa Giêsu loan báo và bổn phận cụ thể của sinh hoạt chính trị và cả của việc phục vụ quân đội nữa. Tình yêu tuyệt đối là bổn phận của mọi người theo chân Chúa Giêsu trong tư cách con người; nhưng không được coi nó là qui phạm trong việc qui định các bổn phận của chức vụ công mà cũng một người theo chân Chúa Giêsu ấy có thể phải đảm nhiệm, và do đó, các bổn phận ấy không lệ thuộc cùng một mệnh lệnh kia. Bởi thế, theo Luther, việc xuất hiện của Chúa Giêsu và nền đạo đức học của Người về Nước Thiên Chúa không phá đổ các cấu trúc của thẩm quyền chính trị trong xã hội con người, cả cấu trúc của chức vụ người lính trong việc tham chiến.

Cũng theo Luther, bản chất của cả hai vương quốc đã được chính Chúa Giêsu trình bày rõ trong câu Người nói với Philatô (câu mà chính Dante cũng dùng trong De Monarchia): “Nước tôi không thuộc trần gian này; nếu nước tôi thuộc trần gian này, thì các thuộc hạ của tôi đã chiến đấu rồi” (Ga 18:36). Một đàng, những lời này hàm nghĩa: Chúa Kitô không muốn can thiệp vào nước trần gian cùng với các cấu trúc của nó, vì nước của Người thuộc một trật tự khác, và do đó, hành động quân sự không phải là phương thế thích hợp để bảo vệ nước của Chúa Kitô. Nhưng, theo cách đọc của Luther, điều ấy cũng có nghĩa là: “chiến tranh không sai” xét ngay trong nó và tự nó, vì đàng khác, Chúa Giêsu nói rằng trong các vương quốc trần gian, các thuộc hạ của Người, trong tư cách công dân, có quyền chiến đấu.

Tương tự như thế, cả Calvin lẫn Luther đều biện luận rằng (5) đối với các binh sĩ đến hỏi ông “còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?”, Thánh Gioan Tẩy Giả không nói với họ rằng bổn phận của họ là phải từ bỏ chức vụ đánh nhau và chém giết đầy tội lỗi ấy đi; ngài chỉ nói: “đừng cướp bóc ai bằng bạo lực hay tố cáo gian, hãy bằng lòng với số lương của mình” (Lc 3:14). Tóm lại, theo Luther, “ngài ca ngợi nghề lính, nhưng đồng thời ngăn cấm các lạm dụng của nghề này. Nhưng các lạm dụng này không ảnh hưởng gì tới chức vụ”. Thành thử ra, việc Chúa Giêsu đến trần gian chính là để đem đến một mệnh lệnh hoàn toàn mới, mệnh lệnh phải yêu thương trong đau khổ; nhưng mệnh lệnh này không được ngỏ với Philatô và các sĩ quan khác của Đế Quốc Rôma đương thời cũng như các binh lính, bất kể là ngoại giáo hay Kitô Giáo, những người có bổn phận phải tuân phục các mệnh lệnh thuộc chức vụ công của họ (6).

Luther còn sử dụng lối giải thích khôn khéo đối với một câu nói khác của Chúa Giêsu mà xem ra Người muốn áp dụng nền đạo đức yêu thương triệt để và việc ngăn cấm các môn đệ mình không được sử dụng võ lực. Đó là lúc tại Vườn Diêtsimani, Thánh Phêrô tìm cách bảo vệ Chúa Giêsu chống lại những người đến bắt Người bằng cách dùng gươm đánh một người trong bọn họ, ngài bị Chúa Giêsu quở: “Hãy tra gươm vào vỏ; vì kẻ nào dùng gươm sẽ bị diệt vì gươm” (Mt 26:52). Xét bề mặt, những lời ấy rõ ràng nói đừng dùng gươm, lại còn thêm lời đe dọa rằng việc dùng như thế, nhiên hậu, sẽ đem bạo lực tương tự đến cho bất cứ người thực hành bạo lực nào. Như thế, mệnh lệnh của Chúa Giêsu xem ra đã mở rộng và áp dụng xa hơn lời Thiên Chúa phán với dân Israel trong Đệ Nhị Luật (Đnl 32:35), mà chính Thánh Phaolô đã trích dẫn (Rm 12:19): “Anh em thân mến, đừng tự mình báo oán, nhưng hãy để cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa làm việc đó, vì có lời chép: Ðức Chúa phán: Chính Ta sẽ báo oán, chính Ta sẽ đáp trả”. Nhưng theo lý thuyết hai vương quốc của Luther, lời cảnh cáo trong câu nói của Chúa Giêsu thực sự có nghĩa như sau: gươm đây là tài sản thuộc về Thiên Chúa (godly estate) chỉ có Người mới được quyền sử dụng để trả thù: “Tất cả những ai dùng gươm (trong tư cách người tư chứ không phải là người thi hành chức vụ công) đều sẽ bị diệt bởi gươm”; gươm chỉ được sử dụng bởi người có chức vụ công, bất kể là lý hình hay binh lính, ngoại giáo hay Kitô hữu. Luther kết luận: “Do đó, chắc chắn và rõ ràng chính do Ý Thiên Chúa, mà gươm giáo và luật lệ trần gian cần được sử dụng để trừng phạt kẻ ác và bảo vệ người ngay”; nó cũng được cả Kitô hữu sử dụng (7).

Còn về việc ngăn cấm của Chúa Giêsu trong Bài Giảng Trên Núi “đừng xét đoán” (Mt 7:1), cả điều này cũng phải được hiểu dưới ánh sáng của lời tuyên bố “Chính Ta sẽ báo oán” (Rm 12:19) (8). Thay vì ngăn cấm chiến tranh và sử dụng vũ lực, mệnh lệnh của Chúa Giêsu buộc các người theo chân Người phải tôn trọng trật tự chính trị đã được thiết lập. Họ phải làm điều đó kể cả khi các nhà cai trị bất chính hay áp bức. Vì “nếu ông vua này không giữ cả luật Chúa lẫn luật của quốc gia, há bạn lại tấn công, kết tội và trả thù ông ta hay sao?”. Đó chính là điều Chúa Giêsu ngăn cấm trong Bài Giảng Trên Núi. Xem đó, đủ thấy Luther coi nền đạo đức của Chúa Giêsu như lời lên án cách mạng, chứ không lên án chiến tranh. Vì theo định nghĩa của ông, cách mạng là một hành động bất chính, trong khi chiến tranh là dụng cụ của hòa bình. Như thế, theo Pelikan, với cái hiểu của họ về các hệ luận của nền đạo đức tình yêu nơi Chúa Giêsu đối với nan đề chiến tranh, chính dòng Cải Cách, bất luận là phái Luther, phái Calvin hay phái Anh Giáo, đều đã gắn bó với truyền thống “chiến tranh chính nghĩa” của Thánh Augustinô và Thánh Tôma Aquinô (9).

Thánh Augustinô vốn bác bỏ chủ nghĩa quân phiệt của Rôma với việc họ vinh danh bạo lực quân sự. Ngài đã dùng chiến tranh làm bằng chứng cho việc con người nhân bản có thể còn tàn ác và khát máu hơn thú dữ (10). Tuy nhiên, dường như có đôi chút miễn cưỡng, ngài đã nhượng bộ mà cho rằng có thể có những cuộc chiến tranh chính đáng, nhất thiết phải có vì những lầm lạc của con người; nhưng ngài thêm ngay rằng, ngay trong những trường hợp như thế, người ta vẫn phải “than phiền về sự cần thiết phải có những cuộc chiến chính đáng” chứ không nên vinh danh chúng” (11). Ngài khai triển quan điểm này một cách chi tiết hơn trong một lá thư gửi cho viên thống đốc Kitô Giáo của Tỉnh Châu Phi, người từng tham khảo ý kiến của ngài về các bổn phận chính trị của ông ta, trong đó có bổn phận tuyên chiến. Thánh Augustinô cảnh cáo ông rằng: “Hòa bình phải là mục tiêu cho các ý nguyện của ông”, do đó “chỉ được tuyên chiến khi cần thiết và chỉ tuyên chiến để mong Thiên Chúa, nhờ đó, mà giải thoát con người khỏi tình thế khẩn trương và gìn giữ họ trong hòa bình”. Đối với Thánh Augustinô, ưu tiên hòa bình chứ không phải chiến tranh là điều nền tảng: “Không được tìm hòa bình để châm ngòi chiến tranh, nhưng tuyên chiến để có hòa bình”. Chiến tranh chính nghĩa là cuộc chiến tranh có mục tiêu và ý định đạt hòa bình. Hệ luận là: ngay khi tuyên chiến, môn đệ Chúa Kitô vẫn phải “trân quí tinh thần của người kiến tạo hòa bình. Và luận chứng dứt điểm cho lối giải thích về chiến tranh và hòa bình này chính là lời Chúa Giêsu nói trong Các Mối Phúc của Bài Giảng Trên Núi (Mt 5:9): “Phúc cho người kiến tạo hòa bình” (12).

Khi suy tư về chiến tranh, Thánh Tôma Aquinô cũng trích dẫn lời trên của Chúa Giêsu và nhiều đoạn Tân Ước khác. Ngài cũng phân biệt con người tư và chức vụ công. Ngài đã hệ thống hóa định nghĩa của Thánh Augustinô về chiến tranh chính nghĩa bằng cách đưa ra 3 điều kiện cho loại chiến tranh đó: người tuyên chiến phải là người có thẩm quyền làm việc đó; phải có lý do chính đáng; và phải tiến hành cuộc chiến tranh ấy với một “ý định đúng đắn” nghĩa là thăng tiến điều thiện và thực hiện hòa bình. Lời của Chúa Giêsu trong Bài Giảng Trên Núi: “Đừng chống cự người ác” (Mt 5:39) là lời có giá trị tối hậu cho các môn đệ của Chúa Giêsu trong tư cách con người tư; “tuy nhiên, đôi lúc vì ích chung, con người cần phải hành động cách khác” để thi hành một chức vụ công (13). Sau này, các đồ đệ của Thánh Tôma còn thêm điều kiện thứ tư, một điều kiện thật quan trọng đối với cuộc tranh luận gần đây về chiến tranh hạt nhân, đó là: chiến tranh phải được tiến hành “debito modo” nghĩa là bằng các phương tiện thích đáng (14).

Khi giải thích việc cần có chiến tranh chính nghĩa dù Chúa Giêsu dứt khoát bác bỏ bạo lực và vinh danh hòa bình, các nhà Cải Cách như Luther phần lớn chỉ lặp lại lý thuyết thời Trung Cổ của Thánh Augustiô và Thánh Tôma Aquinô. Tuy nhiên, họ cũng có thêm quan điểm riêng của họ về ý nghĩa đạo đức và chính trị của Tin Mừng. Một trong những điểm Luther khác biệt căn để với nền thần học Trung Cổ về chiến tranh là quan niệm về thập tự chinh. Như một giải pháp cho tính hàm hồ luân lý của chiến tranh, thập tự chinh đã in hình Thập giá Chúa Giêsu lên chính nghĩa “Hòa Bình và Chiến Tranh Thần Thánh” (15). “Mang Thập giá” có nghĩa là lên đường tham chiến chống lại Thổ Nhĩ Kỳ ở Palestine, bằng cách mang thập giá bằng vải đỏ trên vai chiếc áo choàng ngoài. Dù có những bất nhất nghiêm trọng giữa các trình thuật của một số nguồn khác nhau về bài giảng của Đức Giáo Hoàng Urbanô II tại Công Đồng Clermont ngày 27 tháng 11 năm 1095, điều xem ra rõ ràng là ngài có hứa sẽ tha tội và ban ơn toàn xá cho những ai đeo Thập giá ra trận. Ngoài ra, ngài còn mô tả cái chết của các binh lính mang Thập giá nằm xuống tại trận tiền chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ vô đức tin như là việc tham dự vào nỗi thống khổ và cái chết của Chúa Kitô. Ruciman cho rằng: lòng hăng say tham gia thập tự chinh nhân danh Chúa Giêsu này “đã luôn cung cấp cho người ta lý do bào chữa cho việc sát hại kẻ thù của Thiên Chúa” và chính nó cũng đã dẫn tới việc thảm sát (pogrom) chống lại người Do Thái; nó còn dẫn tới điều ông gọi là “sự phản bội lớn lao của thế giới Kitô Giáo” tức việc cướp phá Constantinople của các thập tự quân Kitô Giáo trong lần thập tự chinh thứ tư năm 1204, một “tội ác chống nhân loại” và là một “hành vi điên khùng vĩ đại về chính trị” cũng như trắng trợn bác bỏ giáo huấn của Đấng mà nhân danh Người họ đã ra trận và đeo thập giá của Người (16).

Đến thời Cải Cách, bầu khí đã thay đổi đáng kể. Có một sử gia đã nói hơi quá rằng “qua thế kỷ 16, ý niệm thập tự chinh đã lui vào quên lãng” (17). Thực ra, phải nói như một học giả khác: “Ý niệm thập tự chinh vẫn tiếp tục ám ảnh trí tưởng tượng của các ông hoàng Tây Phương cho tới thế kỷ 17” (18). Điều rơi vào gần như quên lãng là khả thể thực tế của một thập tự chinh phái qua Palestine để giải phóng Đất Thánh khỏi tay “phường ngoại đạo”; vì nay, “phường ngoại đạo” còn rõ ràng trở thành mối đe dọa lúc đó cho chính Âu Châu Kitô Giáo nữa. Thực vậy, năm 1453, Constantinople, thủ đô đế quốc Byzantine, mà trước đây vốn là nạn nhân của Kitô Giáo Tây Phương hiếu chiến vào năm 1204, đã rơi vào tay người Thổ Ottoman, những người, trong suốt 3/4 thế kỷ sau đó luôn đe dọa Trung Âu: Belgrade vào tay họ năm 1520, Vienna lâm nguy, và vào năm 1526, tại trận Mohacs, đội quân Hungary và vua Louis II của nó đầu hàng trước sức mạnh cao hơn của đoàn quân Thổ. Nhờ việc sáng chế ra máy in cách đó ít năm, các sách vở tuyên truyền về hiểm họa Thổ đã được phân phát rộng rãi khắp Trung Âu, cũng có một số sách vở kêu gọi thoả hiệp và hòa hoãn, nhưng đa số kêu gọi chiến tranh và phục hồi hình thức thập tự chinh thuở trước, lần này không chĩa mũi dùi vào những người Thổ xâm lăng Palestine mà vào những người Thổ dám chĩa mũi kiếm vào chính trái tim thế giới Kitô Giáo. Tất cả những điều này xẩy ra đúng vào lúc Phong Trào Cải Cách rõ ràng đang hướng mũi kiếm vào chính Thế Giới Kitô Giáo, chia rẽ các lực lượng Kitô Giáo giữa lúc họ cần đoàn kết để chống kẻ thù chung. Sự trùng hợp của hai mối đe dọa là dịp để triệu tập công nghị của Đế Quốc Rôma Thánh Thiện tại Augsburg vào năm 1530. Chính trong công nghị này, Tuyên Tín Augsburg đã biện minh cho chính nghĩa của Phong Trào Cải Cách Luther.

Tuyên tín trên đã làm cho quan điểm của phe Cải Cách thành chính thức. Quan điểm này cho rằng “mọi chính phủ trên thế giới và mọi qui định cũng như luật lệ đã có đều được Thiên Chúa thiết lập và ban bố”. Người Kitô hữu hoàn toàn hợp pháp khi “dùng gươm trừng phạt những kẻ làm bậy” và “tham dự các cuộc chiến tranh chính đáng”. Một cách chuyên biệt, tuyên tín này quả quyết rằng Hoàng Đế Charles V được phép “noi gương Đavít một cách lành mạnh và hợp ý Thiên Chúa để gây chiến chống lại người Thổ” (19). Nhưng sự song đối giữa Hoàng Đế Rôma Thánh Thiện và vị quân vương xưa của Israel không cho phép ông trở thành vị chúa tể thần trị (theocratic ruler), tức người cai trị và tuyên chiến nhân danh Chúa Giêsu. Do đó, lý do đưa ra để chấp nhận cuộc chiến chống người Thổ không phải là lý tưởng thập tự chinh về một cuộc chiến thần thánh nhân danh thập giá Chúa Kitô; đúng hơn, trong tư cách giữ chức vụ vương giả, giống Vua Đavít xưa, Charles V có quyền, thậm chí có nhiệm vụ phải “bảo vệ và che chở thần dân của mình”. Khảo luận năm 1526 của Luther về cuộc chiến tranh với người Thổ cũng có cùng một chủ trương như thế. Sẽ là một lầm lỗi khi truyền giảng thập tự chinh và thúc giục “hoàng đế, trong tư cách bảo vệ Giáo Hội và bênh vực đức tin” cầm vũ khí chống lại người Thổ; ngược lại, cầm vũ khí chống lại người Thổ chỉ nên coi là bổn phận của các nhà cai trị Âu Châu, “bất kể họ là Kitô hữu hay không”, để chu toàn nghĩa vụ ở trên đời của họ là cai trị (20). Khi biện minh cho cuộc chiến chống người Thổ, chính dòng Cải Cách bác bỏ lý tưởng thập tự chinh nhưng nhấn mạnh tới lý thuyết chiến tranh chính nghĩa: cuộc chiến tranh như thế là hợp pháp bởi một Chúa Giêsu từng nhìn nhận Phôngxiô Philatô và Xêda có quyền bính từ Thiên Chúa (Ga 19:11), chứ không phải bởi một Chúa Giêsu từng bị đóng đinh dưới thời Phôngxiô Philatô và đã trao quyền bính vào tay các môn đệ và Giáo Hội của Người (Mt 28:19-20).

Lạ một điều là sự so sánh gần nhất với lý tưởng thập tự chinh trong thời Cải Cách không phát xuất từ phía Công Giáo Rôma cũng như phong trào chính dòng Thệ Phản, mà là từ một trong các lãnh tụ cánh tả của Phong Trào Cải Cách Cực Đoan là Thomas Muentzer (21). Ông này xác tín rằng “Chúa Kitô và các tông đồ” đã thiết lập ra một đức tin tinh ròng, nhưng liền sau đó, đức tin ấy đã bị hủ hóa, đến nỗi “Viên Đá Quí Giêsu Kitô” mà đáng lý ra trên đó Giáo Hội đã phải được xây dựng thì đã bị các môn đệ giả của Người “hoàn toàn chà đạp”. Muentzer, trong một bài giảng ngày 13 tháng 7 năm 1524, mà nhà hiệu đính của ông gọi rất đúng là một bài giảng đáng lưu ý nhất thời Cải Cách, đã tuyên bố một cuộc trả thù cho viên Đá Quí Giêsu Kitô ấy, một viên đá “sắp giáng xuống và đập nát mọi kế sách của lý trí [mà thôi] và làm chúng ra tro đất”. Vì Chúa Giêsu vốn cảnh cáo: “Đừng nghĩ rằng Ta đến đem lại bình an cho thế gian; Ta không đến đem lại bình an, nhưng là gươm giáo” (Mt 10:34). Mặt khác, Người còn “truyền lệnh một cách long trọng [qua miệng người quí tộc trong dụ ngôn 10 nén bạc] rằng ‘còn bọn thù địch của tôi kia… hãy dẫn chúng lại đây và giết chết trước mặt tôi’” (Lc 19:27). Nhưng tại sao Hoàng Tử Hoà Bình mà chính Muentzer xưng tụng là “Con Dịu dàng của Thiên Chúa” lại có thể đưa ra một lệnh truyền sắt máu như thế?

“À, là bởi vì chúng đã phá đổ sự cai trị của Chúa Kitô… Bây giờ, nếu các bạn muốn là những nhà cai trị đích thực, các bạn phải bắt đầu cai trị từ gốc rễ, và như chính Chúa Kitô đã truyền, phải loại các kẻ thù của Người ra khỏi hàng ngũ tuyển chọn. Vì các bạn là phương thế cho cùng đích ấy. Các bạn thân mến, đừng nói với chúng tôi những chuyện đùa bỡn về việc phải sử dụng quyền lực của Thiên Chúa ra sao mà không cần tới gươm giáo của qúi bạn. Nếu không, gươm giáo của qúi bạn sẽ rỉ xét trong bao!”.

Lệnh của Chúa Giêsu không là gì khác mà chính là một cuộc cách mạng Kitô Giáo, một loại thánh chiến mới (22). Muentzer bị bắt và bị xử tử một năm sau đó; nhưng tinh thần của ông thì tiếp tục sống, qua chủ nghĩa khải huyền (apocalypticism) chính trị cực đoan của nhóm Những Người Thuộc Quân Chủ Chế Thứ Năm nổi lên từ Phái Thanh Giáo Anh thế kỷ 17, và qua các cố gắng của một số Kitô hữu thế kỷ 20 ở Đông Âu và Thế Giới Thứ Ba. Đối với những người này, Muentzer và nhiều nhà cách mạng Kitô Giáo khác đã trở thành các giáo phụ theo nghĩa đen và là những tiếng nói chân chính của điều mà một trong các nhà trình bày thần học giải phóng gọi là “Kitô học của triết lý hành động cách mạng” (23).

Thần học của Muentzer về thánh chiến đã kết thúc trong cuộc hỗn loạn của Chiến Tranh Nông Dân; lý thuyết chiến tranh chính nghĩa của Luther kết thúc trong thảm họa của Chiến Tranh Ba Mươi Năm. Mặt khác, cả thánh chiến lẫn chiến tranh chính nghĩa cũng đều không đưa ra được câu trả lời cho sự lưỡng nan về Chúa Giêsu và chiến tranh trong câu hỏi của Comenius: “Đó có phải là điều được vị Thầy tốt nhất trong các vị thầy dạy dỗ không?”. Đối với sự lưỡng nan này, câu trả lời duy nhất chân thực và mới mẻ (nhiều người cho là rất cũ) trong hai thế kỷ 16 và 17 phát xuất đầu tiên từ Erasmus, sau đó từ một số người trong phái Tái Thanh Tẩy (Anabaptist), Phái Chấn Động (Quakers) và nhiều nhóm hòa bình của Cải Cách Triệt Để, những người làm chứng rằng theo con người và giáo huấn của Chúa Giêsu, thánh chiến không hề thánh thiện và chiến tranh chính nghĩa không hề có chính nghĩa (24). Dù đôi lúc, họ sử dụng tới các luận điểm của lý trí và của nền luân lý nhân bản phổ quát để đả phá chiến tranh, nhưng chính thần học và nhất là Kitô học, một Kitô học sống và hành động hơn là một Kitô học lý thuyết, mới tạo thành tâm điểm cho các luận chứng của họ (25).

Nền tảng của luận chứng trên là định nghĩa về yếu tính của Kitô Giáo như “việc làm môn đệ” (26). Phái Tái Thanh Tẩy, khi tranh luận với Phái Cải Cách Thụy Sĩ tại Zofingen, đã cho rằng: “Trong chương thứ 9 Tin Mừng Mátthêu, Chúa Kitô tới với người thu thuế Mátthêu và nói với ông ‘hãy theo Ta’ (Mt 9:9)”. Làm sống lại lời kêu gọi của Tân Ước phải hoàn toàn dứt bỏ quá khứ như một điều kiện trở thành môn đệ, họ bác bỏ bất cứ tiêu chuẩn làm môn đệ bên ngoài nào như tham dự các nghi thức của giáo hội định chế cũng như đọc các công thức tuyên tín của giáo hội này. Các tiêu chuẩn bên ngoài và các phương thế gọi là ơn thánh phải tùy thuộc vào con người Chúa Giêsu; vì “Chúa Kitô mới là phương thế; không ai có thể biết Người thực sự ngoại trừ bước chân theo Người trong cuộc sống của mình”. Dù có nhiều gần gũi giữa Phái Tái Thanh tẩy và phong trào đơn tu thời Trung Cổ (Luther quen gọi những người tái thanh tẩy là tân đan sĩ), nhưng việc theo chân Chúa Kitô trong lối làm môn đệ triệt để ấy còn đi xa hơn cả việc làm môn đệ từng được diễn tả trong Sách Gương Phúc Chúa Kitô (Imitation of Christ) và các sách đạo đức của đan viện. Vì trong thần học Tái Thanh Tẩy về việc làm môn đệ, Chúa Giêsu vừa là gương sáng vừa là nguyên mẫu (examplar): dĩ nhiên, Người là gương sáng của việc phải sống ra sao cuộc sống thánh thiện hoàn toàn phù hợp với các đòi hỏi của lề luật và ý muốn của Thiên Chúa, nhưng còn là một nguyên mẫu cho cách thế thể hiện cách sống ấy một cách cụ thể trong thế giới. Và cách đó chính là “đường thập giá”, trên đó các môn đệ phải theo chân Chúa Giêsu bước vào sự chết và từ sự chết bước vào sự sống (27). Một trong những tài liệu gây xúc động sâu sắc nhất từng phát xuất từ bất cứ nơi nào trong Phong Trào Cải Cách chính là các trình thuật tử đạo của người Tái Thanh Tẩy, những người được chính kẻ thù mô tả là “bước tới pháp trường như thể đi vào cuộc khiêu vũ” vì họ coi pháp trường và giàn thiêu xử tử như cơ may, nhờ thập giá, được tham dự vào sự sống, sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu.

Mệnh lệnh hàng đầu trong định nghĩa về việc làm môn đệ ấy chính là việc hoàn toàn phó thác cho thánh ý Thiên Chúa bằng cách vâng theo và noi gương Chúa Giêsu, điều mà người Tái Thanh Tẩy gọi là “tính thụ động” hay “việc đầu hàng” (yielding). Hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa tranh đấu cách mạng của những người như Thomas Muentzer, người tin lành Tái Thanh Tẩy tin rằng mình được mời gọi bước vào một cuộc sống đầu hàng, hoàn toàn tùng phục Thiên Chúa, một cuộc sống được chính Chúa Kitô sống. Họ không buộc phải cố gắng tái lên khuôn thế giới bên ngoài và trật tự trần tục, biến nó thành một xã hội theo Kitô Giáo phù hợp với thánh ý Chúa Giêsu. Họ chỉ cần trở nên “đoàn chiên bé nhỏ” được Chúa Giêsu nói với (Lc 12:32), một cộng đồng chân chính của những môn đệ đạo hạnh và của giáo hội đích thực. Cho nên, trái ngược một cách rõ rệt với lối giải thích của Luther về tính thế tục của cuộc sống Kitô Giáo, họ kêu gọi các môn đệ đích thực của Chúa Giêsu hãy tách mình ra khỏi thế gian và cuộc sống thế gian. Nhờ lý thuyết hai vương quốc, Luther phân biệt được các nhiệm vụ của Kitô hữu trong tư cách công dân và các nhiệm vụ của họ trong tư cách môn đệ. Cả hai thứ nhiệm vụ ấy đều cần thiết, theo cách Luther đọc Tin Mừng; nhưng, trong các đoạn như Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu chỉ nói tới các nhiệm vụ sau, và để yên không nói gì tới các cấu trúc bên ngoài của chính quyền và tư cách công dân, như việc phục vụ trong quân đội, trong đó các môn đệ của Người phải tham gia trọn vẹn. Dựa vào sự phân biệt riêng của mình về vương quốc Chúa Kitô và vương quốc thế gian, người Tái Thanh Tẩy tấn công lối phân biệt của Luther, coi nó tránh né cả cái giá làm môn đệ lẫn con đường thập giá mà nó dẫn tới: Chúa Giêsu thực sự là Hoàng Tử Hòa Bình.

Chính trong ngữ cảnh hình tượng ấy về Chúa Giêsu, người Tái Thanh Tẩy chủ hoà đã đề xướng ra lối giải thích của họ về chiến tranh và việc dùng võ lực với lời tuyên bố súc tích sau đây trong Bẩy Điều năm 1527 của họ, thường được gọi là Tuyên Tín Schleitheim: “Chúng tôi nhất trí như sau về gươm giáo: gươm giáo được Thiên Chúa sắp xếp bên ngoài sự hoàn thiện của Chúa Kitô. Nó trừng phạt và xử tử kẻ dữ, và bảo vệ và che chở người lành. Trong Lề Luật (Cựu Ước), gươm giáo được sắp đặt để trừng phạt kẻ dữ và xử tử họ, còn nay, cũng gươm giáo đó được sắp đặt để các thẩm phán thế gian sử dụng. Còn trong sự hoàn thiện của Chúa Kitô, chỉ có việc cảnh cáo đừng phạm tội nữa và cùng lắm vạ tuyệt thông, chứ không xử tử bất cứ xác phàm nào...” (28).

Bất chấp các lời tố cáo theo qui ước chống lại nó trong các cuộc bút chiến của các đối thủ của nó, chủ trương trên có thể là bất cứ điều gì nhưng không phải là chủ nghĩa vô chính phủ. Nhắc lại lời Tân Ước vốn được truyền thống dùng để hợp pháp hóa chính quyền “Mọi người hãy tuân phục quyền bính cai trị. Vì không có quyền bính nào không từ Thiên Chúa mà có và các quyền bính đang hiện hữu đều được Thiên Chúa thiết lập”, phái Tái Thanh Tẩy nhìn nhận rằng Thiên Chúa đã thiết lập ra chính quyền, nhưng là một chính quyền mà ngay câu sau cho hay “không được mang gươm giáo một cách vô ích” (Rm 13:1-4). Người Tái Thanh Tẩy không có ý định lật đổ các thẩm quyền cai trị, mà hỗ trợ họ. Điều họ chống đối là ý niệm cho rằng môn đệ Chúa Giêsu trở thành thẩm phán và sử dụng tới gươm giáo. Vì chính quyền được thiết lập “bên ngoài sự hoàn thiện của Chúa Kitô” và những ai hiện đang sống “trong sự hoàn thiện của Chúa Kitô” phải sử dụng các biện pháp kỷ luật như ngăn cấm và vạ tuyệt thông, chứ không dùng gươm giáo, làm phương thế thi hành thánh ý Thiên Chúa.

Cũng một ý niệm tương tự về “sự hoàn thiện của Chúa Kitô” đã đem đến giai đoạn kế tiếp cho lịch sử chủ hòa trong Kitô Giáo. Hội Thân Hữu (Society of Friends), khởi đầu tại Anh và sau đó tại Mỹ, đã đưa ra một lý thuyết công phu hơn về thần học để chống lại việc tham gia vào chiến tranh. Đó là thành tựu của Robert Barclay, nhà thần học hệ thống và là nhà hộ giáo chính của phong trào Chấn Động (Quaker). Barclay sẵn sàng nhìn nhận rằng đối với “các thẩm phán hiện nay trong thế giới Kitô Giáo” chiến tranh không hề “hoàn toàn bất hợp pháp”; vì họ vẫn còn ở “rất xa sự hoàn thiện của Kitô Giáo”. “Nhưng”, ông nói tiếp “đối với những ai Chúa Kitô đem tới đây, thì dùng gươm giáo để bảo vệ mình là bất hợp pháp, họ phải tín thác vào Chúa trước nhất”. Vì họ vốn được Thần Khí Chúa Kitô hướng dẫn để nhận ra sự không nhất quán có tính nền tảng giữa việc chiến tranh và “lề luật Chúa Kitô”. Việc thực sự vâng theo lề luật Chúa Kitô đòi buộc Người Chấn Động không được gây chiến, nhưng “chịu để mình bị phá phách, bị bắt giam, cầm tù, đày ải, đánh đập, và xử tệ, mà không cưỡng lại, tín thác vào một mình Thiên Chúa, rằng Người sẽ bảo vệ ta, và dẫn ta theo đường thập giá mà vào nước của Người”. Không thành vấn đề khi đa số những người cho rằng mình là môn đệ Chúa Kitô nhưng lại muốn múa gươm và xông ra trận, nhưng Thiên Chúa “dẫn ta vào nước của Người” không bằng con đường đa số mà là bằng “con đường thập giá” của Chúa Giêsu, Hoàng Tử Hòa Bình (29).

Tuy nhiên, hình ảnh Chúa Giêsu như Hoàng Tử Hòa Bình không phài là chủ đề nổi bật của nghệ thuật tranh ảnh Kitô Giáo thời Cải Cách. Lý do một phần vì nhiều Kitô hữu chủ trương chủ hòa vốn không ưa việc sử dụng tranh ảnh trong giáo hội. Nhưng xét một cách nội tại, cũng vì một lý do khác là khó có thể kịch tính hóa khuôn mặt Chúa Giêsu như Hoàng Tử Hòa Bình. Vì vào thế kỷ 19, chỉ có một Bản Giao Hưởng Số Chín trong khi có tới hàng tá sáng tác phẩm như Nhịp Bước Quân Hành (Marche Militaire) và Khúc Dạo Đầu 1812. Các mô tả hữu hiệu nhất về Hoàng Tử Hòa Bình đã nhờ một nghịch lý bất ngờ mà thành. Như bức họa vẽ cho tác phẩm cuối cùng của nền văn chương Phục Hưng Ý, tức cuốn “Jérusalem Délivrée” (Giêrusalem Giải Phóng), của Torquado Tasso (30), đã mô tả đủ những điều được Comenius nhắc đến trên đây trong bài “Thiên Thần Hòa Bình” của ông: gươm, giáo, bánh xe, dây thừng, cung nỏ, tên lửa, và tù trưởng”. Thực vậy, nó mang các chủ đề nhất quán của những mô tả như sau về các Thập Tự Quân:

“Một số mang áo giáp sơ mi, một số mang áo giáp dài,
Một số mặc áo giáp ngắn, một số mặc áo giáp ngực,
Một số mặc áo giáp toàn thân một số mặc áo giáp không tay,
Mọi người đều mau chóng mang vũ khí,
Mỗi binh lính đều theo người hướng dẫn thông thường của mình
Phất cao biểu ngữ trong làn gió nhẹ
Cờ hoàng gia giương cao hướng lên trời
Thập giá khải hoàn trên tử thi ngoại giáo” (30).

“Thập giá khải hoàn” vốn là biểu tượng thánh thiêng của mọi Kitô hữu, bất kể là chủ hoà hay thập tự quân. Tuy nhiên, người chủ hòa coi nó như chiến thắng chống lại áo giáp và vũ khí, chứ không chiến thắng nhờ chúng: Chúa Giêsu, Hoàng Tử Hòa Bình, đã nắm lấy lưỡi gươm và đập bể nó từ tay binh lính, và nâng nó lên trời để vẽ thành cây thập giá.

Liên quan tới toàn bộ lịch sử các hình ảnh về Chúa Giêsu, điều đáng lưu ý là: một số những người tấn công truyền thống sử dụng hình ảnh Chúa Giêsu để biện minh cho chiến tranh cũng đồng thời là những người kịch liệt theo đuổi chiến dịch công kích các tín điều truyền thống về con người của Chúa. Một số người thuộc phái Tái Thanh Tẩy, như David Joris, đã trở thành những người phản công tín điều Chúa Ba Ngôi (Antitrinitarians), và một số nhấn mạnh của phái Chấn Động về lý trí và “ánh sáng bên trong” đã dẫn tới việc bác bỏ tính chính thống Kitô Giáo. Những người bênh vực cả lý thuyết chiến tranh chính nghĩa lẫn lý thuyết hai bản tính trong Chúa Kitô tuyên bố là họ tìm thấy nhiều điều không nhất quán trong học lý đem Chúa Giêsu ra làm thẩm quyền thần thánh để chống lại chiến tranh, trong khi lại bác bỏ một cách có hệ thống nhiều phẩm tính thần thánh mà truyền thống vốn dành cho Người. Vì nếu Chúa Giêsu, trong tư cách Chúa, có quyền tuyệt đối truyền cho người ta phải tuân phục một cách triệt để, ngăn cấm người ta không có cả quyền tự vệ, và còn hủy bỏ cả những đòi hỏi căn bản của nhà nước và xã hội, thì hẳn Người phải là một ai đó vượt trên gấp bội những công thức Kitô học đầy tính đơn giản hóa mà phái Tái Thanh Tẩy và phái Chấn Động vốn dành cho Người.

Luận chứng trên nhất định là có giá trị. Tuy nhiên, các bản Tin Mừng được cả hai bên cùng đọc có chứa một dụ ngôn trong đó Chúa Giêsu tương phản việc nói điều đúng và làm điều đúng một cách khác nữa: “Các ông nghĩ sao? Người kia có hai con trai; ông tới nói với đứa con thứ nhất, ‘này con, hôm nay con đi làm vườn nho cho ta đi’. Hắn trả lời, ‘không, con không đi đâu’; nhưng sau đó hắn hối hận và đã đi làm. Rồi ông tới nói với đứa con thứ hai cùng một điều như đã nói với đứa con thứ nhất; hắn trả lởi, ‘vâng, con sẽ đi”, nhưng đã không đi. Ai trong hai đứa con đó làm theo ý cha mình?” (Mt 21: 28-31)
______________________________________________________________________________________

Ghi chú

(1) Louis de León, Names of Christ, cuốn 2, Durán-Kluback hiệu đính tr.212-39.
(2) John Amos Comenius, The Angel of Peace 9, bản tiếng Anh của Walter Angis Morison, New York: Pantheon Books, không ngày tháng.
(4) Luther, Whether Soldiers, Too, Can Be Saved, trong Luther’s Works 46:95.
(5) John Calvin, Institutes of Christian Religion 4.24.11-12, McNeill hiệu đính 2:1499-1501
(6) Luther, Whether Soldiers, Too, Can Be Saved, trong Luther’s Works 46:97.
(7) Luther, Temporal Authority: To What Extent It Should Be Obeyed, trong Luther’s Works 45:87.
(10) Thánh Augustine, City of God 3.14; 12.22.
(11) Thánh Augustine, City of God 19.7.
(12) Thánh Augustine, Epistles 189.2.
(13) Thomas Aquinas, Summa Theoligica 2.2.40.
(14) John Courtney Murray, ‘Remarks on the Moral Problem of War’, Theological Studies 20 (1959): 40-61.
(15) Steven Runciman, A History of Crusades, 3 vols. (Cambridge: Cambridge University Press, 1951-1954, 1:83-92
(16) ) Steven Runciman, A History of Crusades, 3 vols. (Cambridge: Cambridge University Press, 1951-1954), 3:7; 2:287; 3:130.
(17) Hans Pfeffermann, Die Zusammenarbeit der Renissancepapste mit den Turken (Winterthur: Mondial Verlag, 1946)
(18)Aziz S. Atiya, ‘The Ftermath of the Crusades’ trong A History of the Crusades, Kenneth M. Setton chủ biên, 5 vols. (Madison: University of Wisconsin Press, 1955-1975), 3:660.
(19) Augsburg Confession 16.1-2; 21.1.
(20) Luther, On War against the Turks, trong Luther’s Works 46:186-88.
(21) Xem Eric W. Gristch, Reformer without a Church: The Life and Thought of Thomas Muentzer (Philadelphia: Fortress Press, 1967)
(22) Thomas Muentzer, ‘Sermon before he Prince’ trong Spiritual and Anabaptist Writers, George Huntston Williams (Philadelphia: Westminster Press, 1957) tr.50-53, 65-66.
(23) George Casalis, Correct Ideas Don’t Fall from the Skies; Elements for an Inductive Theology, Jeanne Marie Lyons và Michael John dịch (Maryknoll, N.Y.: Orbis Books,,, 1984) tr.114.
(24) Xem George Huntston Williams, The Radical Reformation (Philadelphia: Westminster Press, 1962).
(25) Harold S. Bender, “The Pacifism of the Sixteen-Century Anabaptists”, Church History 24 (1955) 119-31.
(26) Pelikan, Christian Tradition 4:313-22
(27) Ethelbert Stauffer, “The Anabaptist Theology of Maryrdom”, Mennonite Quaterly Review 19 (1945) 179-214.
(28) Xem Hans J. Hilderbrand, The Reformation (New York: Harper and Row, 1964), tr.235-38.
(29) Bainton, Christian Attitudes Toward War and Peace, tr,157-65.
(30) Torquato Tasso, Jerusalem Delivered, Edward Fairfax dịch (Carbondale: Southern Illinois University Press, 1962), tr.21.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Bánh Hằng Sống
Tấn Đạt
11:16 29/12/2020
BÁNH HẰNG SỐNG
Ảnh của Tấn Đạt

“Ta là Bánh Hằng Sống
từ trời xuống, ai ăn Bánh này
sẽ được sống muôn đời.
Vì Bánh Ta ban chính là Thịt Ta
để cho thế gian được sống”
(Jn 6:51-53)
 
VietCatholic TV
Pháp rúng động: Vũ phu thiêu sống vợ, còn bắn chết 3 cảnh sát. Tin vui Giáng Sinh cho Giáo Hội Iraq
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
03:48 29/12/2020


1. Bạo hành gia đình tại Pháp: ba cảnh sát bị bắn chết

Trong Sứ điệp Giáng Sinh Urbi et Orbi, Đức Thánh Cha nói:

Xin Chúa Hài Đồng giúp chúng ta luôn sẵn sàng, rộng lượng và hỗ trợ, đặc biệt là đối với những người yếu đuối nhất, những người bệnh tật và những người thất nghiệp hoặc gặp khó khăn nghiêm trọng do những hậu quả kinh tế gây ra bởi đại dịch, cũng như những phụ nữ, là những người trong những tháng bị cô lập gần đây đã phải hứng chịu bạo lực gia đình.

Tình trạng bạo lực gia đình mà các phụ nữ phải gánh chịu có thể thấy rõ trong câu chuyện thương tâm vừa diễn ra tại Pháp.

Những hình ảnh quý vị và anh chị em đang xem thấy đây là cảnh nước Pháp bày tỏ lòng kính trọng đối với ba hiến binh thuộc lữ đoàn Ambert, bị giết hôm thứ Ba tuần trước bởi một người đàn ông đang hành hạ vợ mình. Buổi lễ được tổ chức với sự hiện diện của Bộ trưởng Nội vụ Pháp Gérald Darmanin và Bộ trưởng Lục quân Florence Parly.

Ba cảnh sát Pháp đã bị một người đàn ông bắn chết khi họ đến một ngôi nhà ở Saint-Just, một xã hẻo lánh ở miền trung nước Pháp, cách Paris 500km về phía Đông Nam, để đáp lại lời kêu cứu của một phụ nữ.

Chị ta bị chồng đánh đập dã man nên đã tìm cách trốn trên mái nhà và dùng điện thoại di động gọi cảnh sát đến cứu. Trong khi đó, người chồng tưới xăng chung quanh nhà và đe dọa sẽ nổi lửa thiêu sống chị ta nếu không leo xuống.

Cảnh sát viên Arno Mavel, 21 tuổi, đã đến hiện trường nhưng anh bị người chồng bắn bị thương. Do đó, anh đã gọi tiếp viện. Trung úy Cyrille Morel, 45 tuổi, và hạ sĩ Remi Dupuis, 37 tuổi, đến cứu đã bị bắn thiệt mạng. Cảnh sát viên Arno Mavel, sau đó cũng qua đời vì vết thương quá nặng.

Cảnh sát cho biết ngôi nhà bốc cháy và hung thủ đã tẩu thoát. Cảnh sát đã kịp thời cứu được người vợ khỏi bị chết cháy. Một cảnh sát viên thứ tư bị thương khi giao tranh với hung thủ. Tuy nhiên, cảnh sát cho biết vết thương của anh không đe dọa đến tính mạng.

Nguồn tin mới nhất của cảnh sát nói đã tìm thấy hung thủ nằm chết trong xe hơi gần thành phố Clermont-Ferrand. Hung thủ, chưa được nêu danh tính, được cho biết là 48 tuổi, và đã có một đời vợ. Y không có tiền án nào, ngoài việc gặp rắc rối với pháp luật vì không trả tiền cấp dưỡng cho con cái với người vợ trước.

Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã gửi lời chia buồn tới gia đình các viên chức cảnh sát thiệt mạng.

“Để bảo vệ chúng ta, các lực lượng của chúng ta đã hành động bất chấp nguy hiểm đến tính mạng của họ. Họ là những người hùng của chúng ta”, ông Macron viết trên Twitter.


Source:Reuters

2. Trong Thánh lễ Đêm Giáng sinh, tổng thống Hồi giáo của Iraq kêu gọi bảo vệ các Kitô hữu

Tổng thống theo Hồi giáo Sunni của Iraq, Barham Salih, đã tham dự Thánh lễ Đêm Giáng sinh hôm thứ Năm, 24 tháng 12, và nói với các tín hữu rằng chính phủ nước này phải nỗ lực hết sức để bảo vệ các Kitô hữu và giúp họ quay trở lại, đồng thời còn phải kiềm chế bạo lực cực đoan và diệt trừ tham nhũng trong chính quyền.

Phát biểu tại nhà thờ chính tòa Thánh Giuse ở Baghdad ngày 24 tháng 12, Salih cho biết chính phủ “phải thực thi những nỗ lực nghiêm túc để tạo điều kiện cho các tín hữu Kitô Iraq trở về và sống một cuộc sống an toàn và đúng phẩm giá ở quê hương của họ. “

“Các quyền tôn giáo và văn hóa của họ phải được bảo vệ. Như lịch sử của đất nước cho thấy, họ là một phần chính và quan trọng của dân tộc Iraq”, ông nói và lưu ý rằng Iraq là một quốc gia đa dạng, và nếu không có các tín hữu Kitô, “sức mạnh mang lại cho chúng ta bởi sự đa dạng về tôn giáo và sắc tộc của mình, chắc chắn sẽ mất đi”.

Ông Salih đã phát biểu như trên vài ngày sau khi quốc hội Iraq công bố quyết định tuyên bố Giáng sinh là ngày lễ quốc gia hàng năm.

Trước đây, các Kitô hữu đã được nghỉ vào ngày 25 tháng 12 nhưng đây không được coi là ngày lễ đối với phần còn lại của quốc gia nơi đa số theo đạo Hồi. Giáng sinh đã được cho phép nghỉ lễ “một lần” vào năm 2008, nhưng quyết định đó không được gia hạn.

Đây có thể xem là kết quả trực tiếp từ quyết định của Đức Thánh Cha Phanxicô đến thăm Iraq từ ngày 5 đến ngày 8 tháng 3 năm 2021. Quyết định về lễ Giáng sinh và sự hiện diện của Salih trong Thánh lễ chắc chắn là những dấu hiệu thiện chí trước chuyến đi của Giáo hoàng. Những điều này còn có thể gửi một thông điệp tới các tín hữu Kitô Iraq. Sau nhiều thập kỷ bị phân biệt đối xử và ngược đãi, họ có thể có lý do để hy vọng.

Theo hiến pháp của Iraq, chức vụ tổng thống chủ yếu là một vai trò biểu tượng với quyền lực thực sự được trao cho quốc hội và thủ tướng.


Source:Crux

3. Buổi hòa nhạc mừng Chúa Giáng Sinh bên trong nhà thờ chính tòa Notre Dame de Paris

Đội mũ cứng và mặc quần áo bảo hộ, các thành viên của dàn hợp xướng Nhà thờ Đức Bà lần đầu tiên hát bên trong một địa danh có từ thời Trung cổ của Paris kể từ sau trận hỏa hoạn kinh hoàng năm ngoái. Đó là một buổi hòa nhạc đêm Giáng sinh thật đặc biệt.

Cùng với một nghệ sĩ chơi đàn viôlông nổi tiếng và với một cây đàn phong cầm thuê bên ngoài, các ca sĩ biểu diễn bên dưới các cửa sổ kính màu giữa một nhà thờ tối om, nơi đang chuyển từ các hoạt động dọn dẹp nguy hiểm bấp bênh trở thành một địa điểm tái thiết lớn. Ban đầu dàn hợp xướng dự định bao gồm 20 ca sĩ nhưng vì lý do an toàn, họ giới hạn trong phạm vi tám người, đều là các ca sĩ trứ danh của Kinh Thành Ánh Sáng

Theo một quy định về phòng dịch trong nhà của chính quyền Pháp nhằm ngăn chặn sự lây lan của vi rút, các thành viên dàn hợp xướng đã phải đứng cách xa nhau để có thể tháo các khẩu trang y tế ra khi hát.

Buổi hòa nhạc - bao gồm các bài hát Giáng Sinh truyền thống như “Silent Night” bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, “The Hymn of the Angels,” và thậm chí cả “Jingle Bells” - đã được thu âm vào đầu tháng này và phát sóng ngay trước nửa đêm thứ Năm. Công chúng không được phép tham dự và dự kiến sẽ không được nhìn thấy bên trong nhà thờ Đức Bà cho đến ít nhất là vào năm 2024.

Giáo phận gọi đây là một “buổi hòa nhạc mang tính biểu tượng cao… được đánh dấu bằng cảm xúc và hy vọng,” và kỷ niệm một “di sản âm nhạc có từ thời Trung cổ”.

Đức Tổng Giám Mục Michel Aupetit của Paris đã cử hành các buổi lễ đêm Giáng sinh hôm thứ Năm tại Nhà thờ Saint-Germain-l'Auxerrois đối diện với Bảo tàng Louvre thay vì tại Nhà thờ Đức Bà như truyền thống.

Dàn hợp xướng Notre Dame từng tổ chức 60 buổi hòa nhạc mỗi năm bên trong nhà thờ nhưng kể từ đó đã phải lưu động, di chuyển giữa các nhà thờ khác ở Paris.

Ngôi nhà thờ được xây từ thế kỷ 12 đang được nâng cấp vào thời điểm xảy ra vụ cháy hôm 15 tháng Tư, 2019. Lửa phá hủy mái nhà và làm sụp ngọn tháp cao nhất của nó. Khi không có mái để giữ ổn định một cấu trúc với toàn là những tảng đá lớn, mái vòm của nhà thờ là yếu tố sống còn để giữ nhà thờ chính tòa đứng vững. May mắn, hiện nay mái vòm nhà thờ đã được củng cố.


Source:Crux
 
Đại nghịch bất đạo tại Argentina: Linh mục Dib trước đây theo Hồi Giáo. Thánh Giuse từng thất nghiệp
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:09 29/12/2020


Thân thế của linh mục dám đấm Giám Mục của mình tại giáo phận San Rafael

Như chúng tôi đã đưa tin, một linh mục đã hành hung Giám Mục của mình tại Á Căn Đình, quê hương của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Vị linh mục ấy là Cha Camilo Dib, sinh năm 1964 tại Syria.

Cha Camilo Dib, sinh năm 1964 tại Syria. Gia đình ngài theo Hồi Giáo, và đã di cư sang Á Căn Đình vào năm 1973, khi ngài lên 9 tuổi. Đầu tiên họ cư trú ở tỉnh Tucumán, rồi mới dọn về San Rafael. Năm ngài lên 11 tuổi, chị lớn của ngài kết hôn với một người Công Giáo, và cải đạo từ Hồi Giáo sang Công Giáo. Cậu Camilo Dib cũng theo gương chị gia nhập Công Giáo.

Tuy nhiên, trong một chương trình truyền hình vào năm 2014 trên Kênh 21 San Rafael, Cha Dib kể lại rằng mặc dù ngài đã được rửa tội ở tuổi 11, nhưng chỉ cốt để làm cho chị gái của ngài vui lòng, ở tuổi 19 ngài thực sự chuyển sang đạo Công Giáo và bắt đầu theo đuổi lý tưởng làm linh mục.

“Tôi yêu lý tưởng sống cho Chúa và với Chúa, và tôi thấy rằng phương cách duy nhất để dâng mình hoàn toàn cho Chúa là trở thành linh mục,” ngài nói.

Ở tuổi 24, ngài vào Chủng viện “Santa María Madre de Dios” nghĩa là “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời” ở San Rafael và được thụ phong linh mục năm 1996.

Trước khi bị treo chén, ngài là cha sở Giáo xứ Nuestra Señora del Carmen ở Malargüe.

Điều 1370, khoản 2, của bộ Giáo Luật khẳng định rằng ai hành hung một vị Giám Mục thì mắc vạ tuyệt thông tiền kết; và nếu là giáo sĩ, thì mắc vạ huyền chức tiền kết.

Sau quyết định treo chén Cha Camilo Dib, tình hình xem ra còn căng thẳng hơn trước đó.

Antonio Caponnetto - một nhà sử học và nhà báo người Á Căn Đình – ví von Cha Camilo Dib với Thánh Nicholas thành Myra (còn gọi là Ông già Noel). Thánh Nicholas được xem là một người trung thành bảo vệ đức tin vào thế kỷ thứ tư. Theo truyền thuyết, thánh Nicholas đã tát Giám Mục Arius vì tội đề xuất dị giáo trong Công Đồng đầu tiên tại Nicaea, được triệu tập bởi Hoàng đế Constantine vào năm 325 sau Chúa Giáng Sinh. Antonio cho rằng hành động của Cha Camilo Dib cũng là một hành động can đảm và cần thiết để bảo vệ đức tin.

Vào giữa tháng Sáu vừa qua, Đức Cha Taussig thông báo rằng, vì đại dịch coronavirus, các linh mục chỉ được trao Mình Thánh Chúa trên tay cho những anh chị em giáo dân trong tư thế đang đứng. Trong khi đó, nhiều giáo dân Á Căn Đình vẫn có thói quen quỳ gối rước Mình Thánh Chúa trên lưỡi. Chỉ thị của Đức Cha Taussig ngăn cấm thực hành này và đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt tại giáo phận San Rafael.

Các vị giáo sư trong chủng viện “Santa María Madre de Dios” đưa ra các lý lẽ để bác bỏ chỉ thị của Đức Cha Taussig. Cho nên, một số lớn các linh mục ở San Rafael đã không tuân thủ các chỉ thị liên quan đến việc phân phát Mình Thánh Chúa trên tay.

Đức Cha Taussig nhận xét rằng việc từ chối tuân thủ này đã gây ra “tai tiếng nghiêm trọng trong và ngoài chủng viện và trên khắp giáo phận.”

Vào ngày 20 tháng 8, Đức Cha Taussig tuyên bố rằng ngài sẽ áp đặt các biện pháp trừng phạt theo giáo luật đối với các linh mục kiên trì không vâng lời bằng cách cứ cho Rước lễ trên lưỡi chứ không phải trên tay, theo chỉ thị của ngài.

Tháng 10 năm nay, Đức Cha Taussig sang Tòa Thánh. Ngài được Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp và có những tiếp xúc với Bộ Giáo Sĩ. Sau khi cân nhắc nhiều yếu tố, kể cả việc là trong vòng 15 năm qua, chủng viện đã phải có đến 7 vị giám đốc vì những mâu thuẫn trong nội bộ, Bộ Giáo Sĩ đã đưa ra quyết định đóng cửa chủng viện.

Khi trở về nước vào cuối tháng 10, Đức Cha Taussig cho biết quyết định này của Vatican và gọi đó là một quyết định “miễn bàn cãi” và sẽ có hiệu lực vào cuối năm nay.

Nhiều cuộc biểu tình lập tức nổ ra, trong đó có cả một cuộc biểu tình bằng xe hơi bên ngoài trụ sở Tòa Giám Mục San Rafael.

Để đáp lại các cuộc biểu tình này, Đức Cha Taussig đã công bố một lá thư ngày 30 tháng 10, yêu cầu người Công Giáo không “đến với những cuộc tụ họp này”, vì “chúng làm trầm trọng thêm tình hình và có thể gây hại cho chính các chủng sinh nhiều hơn, những người mà tất cả chúng ta đều muốn chăm sóc”. Ngài gọi các cuộc biểu tình là “hành động nổi loạn và tranh giành”.

Hôm 21 tháng 11, Đức Cha Taussig đã đến thăm thành phố Malargüe, cách Tòa Giám Mục 177 km để giải thích về quyết định đóng cửa chủng viện. Thánh lễ do ngài cử hành đã bị gián đoạn bởi một cuộc biểu tình của anh chị em giáo dân và cả các linh mục. Một người nào đó còn cố ý rạch lốp xe của ngài để buộc ngài phải đối chất với họ trong khi chờ một xe khác đưa ngài về.

Cha Camilo Dib, người vừa bị treo chén, đã tích cực tham gia trong cuộc biểu tình này. Vì thế, ngài bị triệu tập lên Tòa Giám Mục, nơi ngài đã đá làm hư chiếc ghế Đức Cha Taussig đang ngồi và dùng tay đấm vị Giám Mục.


Source:ACIPrensa

2. Các học giả Kinh Thánh nói Thánh Giuse đã từng thất nghiệp. Ai không có công ăn việc làm hãy chạy đến với ngài



Trong tình trạng thất nghiệp hàng loạt vẫn còn cao khi đại dịch coronavirus kéo dài, hai linh mục học giả Kinh Thánh khích lệ người Công Giáo tìm đến Thánh Giuse như một đấng bầu cử đặc biệt.

Trích dẫn cuộc chạy trốn của Thánh Gia sang Ai Cập, Cha Donald Calloway, một nhà văn chuyên viết các sách thiêng liêng về việc sùng kính các thánh, cho biết Thánh Giuse “rất đồng cảm” đối với những người đang chịu cảnh thất nghiệp.

“Bản thân ngài lúc này lúc khác đã từng thất nghiệp, chẳng hạn như trong chuyến lánh nạn sang Ai Cập”, vị linh mục nói với Thông tấn xã Catholic News, gọi tắt là CNA. “Thánh Gia đã phải thu dọn mọi thứ trong một thời gian ngắn và đến một đất nước xa lạ mà không có gì cả. Các ngài không có kế hoạch về điều đó”.

Cha Calloway, tác giả của cuốn sách “Tận hiến cho Thánh Giuse: Những điều kỳ diệu của Người Cha Linh hồn của chúng ta”, là một linh mục Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ở Ohio.

Ngài khẳng định rằng Thánh Giuse “một lúc nào đó chắc chắn khá lo lắng: làm sao ngài đi tìm việc ở nước ngoài, trong hoàn cảnh không biết tiếng, không biết người?”

Vào cuối tháng 11 vừa qua, khoảng 20.6 triệu người Mỹ đã nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp, theo các báo cáo gần đây. Nhiều người khác đang làm việc tại nhà trong điều kiện hạn chế đi lại do coronavirus, trong khi vô số công nhân phải đối mặt với nguy cơ nhiễm coronavirus ở nơi làm việc và mang nó về nhà cho gia đình.

Cha Sinclair Oubre, một người ủng hộ nhiệt thành tầng lớp lao động, cũng nghĩ rằng chuyến lánh nạn sang Ai Cập là thời kỳ thất nghiệp của Thánh Giuse — và cũng là thời kỳ cho thấy một tấm gương về các nhân đức.

“Ngài vẫn tập trung: luôn cởi mở, tiếp tục vật lộn với cuộc sống, mà không bị suy sụp. Ngài đã có thể xây dựng kế sinh nhai cho mình và gia đình”, Cha Oubre nói. “Đối với những người thất nghiệp, Thánh Giuse cho chúng ta một gương mẫu không để mặc cho những khó khăn trong cuộc sống đè bẹp tinh thần của mình, nhưng phải tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, và thêm vào đó là sự quan tâm của chính chúng ta, củng cố thái độ và đạo đức làm việc mạnh mẽ hơn”.

Cha Oubre là người điều hành mục vụ của Mạng lưới Lao động Công Giáo và là giám đốc Tông đồ Biển của giáo phận Beaumont, chuyên phục vụ những người đi biển và những người khác sinh sống bằng các công việc trên biển.

Theo Cha Calloway, hầu hết mọi người trong cuộc sống đều là những người lao động, dù là lao động chân tay hay lao động trí óc.

“Họ có thể tìm thấy một mô hình nơi Thánh Giuse Thợ”, ngài nói. “Bất kể công việc của anh chị em là gì, anh chị em có thể mang Chúa vào trong công việc của mình và điều đó có thể mang lại lợi ích cho anh chị em, gia đình anh chị em và xã hội nói chung”.

Cha Oubre cho biết có nhiều điều để học hỏi từ việc suy tư về công việc của Thánh Giuse, là đấng đã nuôi dưỡng và bảo vệ Đức Trinh Nữ Maria và Chúa Giêsu. Ngài cũng là một mô hình thánh hóa thế giới.

“Nếu Thánh Giuse đã không làm những gì ngài đã làm, không có cách nào Đức Trinh Nữ Maria, một thiếu nữ đang mang thai khi chưa chính thức kết hôn, có thể sống sót trong môi trường đó”, Cha Oubre nói.

“Chúng ta phải nhận ra rằng công việc chúng ta làm không chỉ dành cho thế giới này, nhưng chúng ta có thể làm việc để giúp xây dựng Nước Chúa. Công việc mà chúng ta làm là chăm sóc các thành viên trong gia đình và con cái của chúng ta và giúp xây dựng các thế hệ tương lai từ đó”.

Cha Calloway cảnh báo chống lại “những ý thức hệ về công việc”.

“Nó có thể nô lệ hóa chúng ta. Mọi người có thể biến thành những người nghiện công việc. Có một sự hiểu lầm về ý nghĩa của công việc”, ngài nói.

Thánh Giuse đã coi trọng công việc “bởi vì, với tư cách là người được chọn làm cha của Chúa Giêsu trên trần gian này, ngài đã dạy Con Thiên Chúa cách thức lao động chân tay. Ngài được giao trách nhiệm dạy con Thiên Chúa làm thợ mộc và điều hành công việc”.

“Chúng ta làm để sống chứ không phải sống để mà làm. Nói cách khác, chúng ta không được kêu gọi trở thành nô lệ cho một thương nghiệp, hay tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống trong phạm vi hạn hẹp công việc của mình, nhưng phải làm sao để công việc của chúng ta tôn vinh Chúa, xây dựng cộng đồng nhân loại, trở thành nguồn vui cho mọi người. Thành quả lao động của anh chị em là để bản thân và người khác được hưởng, nhưng không được làm tổn hại đến người khác hoặc tước đi mức lương vừa phải hoặc buộc họ phải làm việc quá sức của họ, hoặc tạo ra có những điều kiện làm việc chà đạp phẩm giá con người”.

Cha Oubre đã tìm thấy một bài học tương tự. Ngài nói rằng “công việc của chúng ta phải luôn hướng tới việc phục vụ gia đình, cộng đồng, xã hội của chúng ta và thế giới”.


Source:Catholic News Agency