Ngày 31-07-2025
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:01 31/07/2025
Chương 19:

KIÊU NGẠO



“Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường.” (Gc 4, 6)

1. Kiêu ngạo là vua của các thứ tội, kiêu ngạo vừa đến thì muôn vàn tội ác cũng đến theo, các đức hạnh đều bỏ đi.

(Thánh Gregory)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"


----------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://www.nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:05 31/07/2025
5. CHA MẸ LÀ CÁI GÌ

Tôi ở một huyện nọ coi bài thi của một thí sinh thi tú tài, đề thi chỉ có ba chữ là “còn cha mẹ.”

Trên một trang bài thi viết như sau: “Cha mẹ là cái gì?”, tôi không nín cười được nên bật ra tiếng cười, và phê ngay trên bài thi một hàng chữ:

- “Cha là vật dương, mẹ là vật âm, âm dương không hòa nên sinh ra mi là quái vật!”

(Tiếu Tiếu lục)

Suy tư 5:

Thi tú tài mà không biết cha mẹ là gì thì đúng là hơn cả quái vật, bởi vì con vật mới đẻ ra thì cũng đã biết cha mẹ nó rồi, huống chi là con người, mà lại là tú tài nữa chứ, đúng là âm dương không hòa hợp nên sinh đứa con trời đánh.

Thời nay có nhiều cha mẹ không hòa hợp nhau nên con cái thành kẻ bụi đời lang thang; thời nay cũng có nhiều cha mẹ không hợp nhau vì sống ích kỷ cho riêng mình, nên con cái thành kẻ phạm pháp nguy hiểm cho xã hội...

Âm dương hòa hợp thì vạn vật hạnh thông, con người mạnh khỏe và tính người ôn nhu; âm dương không hòa hợp thì vạn vật ngưng trệ gây ra nhiều thiên tai, con người bệnh hoạn và cáu kỉnh gay gắt...

Nguyên nhân không hòa hợp của âm dương là do sự kiêu ngạo của con người mà ra; nguyên nhân không hòa hợp của cha mẹ là do cuộc sống ích kỷ của họ mà ra; nguyên nhân con cái thành “quái vật” là do cha mẹ mà ra, bởi vì con cái là món quà đẹp nhất mà Thiên Chúa ban cho cha mẹ, nhưng vì ích kỷ mà cha mẹ đã biến nó thành cái rác của xã hội.

Làm sai đề thi (lạc đề) là chuyện thường có của học sinh, nhưng lạc đến độ viết “cha mẹ là cái gì?” là chuyện của cha mẹ và những người có trách nhiệm giáo dục con em của mình...

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


----------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://www.nhantai.info
 
Ngày 01/08: Thành kiến – Cớ vấp phạm – Thánh Anphong Maria Ligôri - Lm. Giuse Đỗ Tuấn Anh, CSsR.
Giáo Hội Năm Châu
03:31 31/07/2025

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.

Khi ấy, Đức Giê-su về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao? Và tất cả chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?” Và họ vấp ngã vì Người. Nhưng Đức Giê-su bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương và trong gia đình mình mà thôi.” Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin.

Đó là lời Chúa
 
Khôn ngoan đích thực
Lm. Thái Nguyên
05:47 31/07/2025


KHÔN NGOAN ĐÍCH THỰC

Chúa Nhật 18 Thường niên, năm C: Lc 12,13-21

Suy niệm

Nhà thơ Nguyễn Gia Thiều từng thốt lên như một lời ai oán:

“Mồi phú quý dử làng xa mã.

Bả vinh hoa lừa gã công khanh” (Cung oán ngâm khúc).

Phú quý là “mồi nhử”; vinh hoa là “bả độc” nhưng lại có sức mê hoặc khiến con người không còn tỉnh táo, không còn làm chủ được bản thân nên bị sa vào cạm bẫy, đánh mất chính mình mà không hay biết.

Trong bài đọc thứ nhất, sách Giảng viên cho biết tiền bạc của cải chỉ là phù vân: “Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân.” (Gv 1, 2). Nếu chỉ lo ôm đồm tiền bạc của cải, đời ta sẽ biến thành hư không.

Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô thì kêu gọi chúng ta: "Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thương giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới." (Cl 3,1-5).

Còn bài Tin Mừng cho thấy sự dại dột của việc ham mê tiền bạc của cải. Dụ ngôn mô tả người phú hộ hả hê với những của cải chất đầy các kho. Ông tưởng mình đã toan tính khôn ngoan để đời mình sẽ được hoàn toàn vui sướng, nhưng Chúa cho thấy nguy cơ: “Ðồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”. Phải chăng Chúa muốn chúng ta nghèo khổ? Chắc chắn là không, vì của cải vật chất trên đời là do Chúa ban cho chúng ta hưởng dùng (x. Tv 71). Vấn đề không phải giàu hay nghèo, mà “phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”.

Sở dĩ có những gia đình quá nghèo là vì làm một ăn hai, tiêu xài phung phí; nghèo vì lười biếng không chuyên chăm cần cù; nghèo vì bài bạc, nhậu nhẹt ăn chơi quá đáng; nghèo vì không biết dành dụm, tiết kiệm.

Lý do thứ hai có nhiều người nghèo vì tình trạng xã hội bất công, vì cường hào ác bá, vì bị giới người giàu bóc lột sức lao động. Cũng vậy, người tạo được công ăn việc làm cho người khác là người phúc đức, nhưng mướn với giá rẻ mạt thì lại là người thất đức.

Lý do thứ ba là thiếu sự chia sẻ cho nhau. Nếu ai cũng rộng lòng chia sẻ thì chẳng có ai nghèo. Chúa cho có những người giàu hơn là để họ biết chia sẻ nhiều hơn. Rất buồn là nhiều Kitô hữu đã không sống được điều Chúa mong. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng:“Khi chúng ta tránh né, từ chối chia sẻ, ngừng ban tặng, và khóa kín bản thân mình trong cuộc sống tiện nghi…thì chẳng khác nào là một cuộc tự sát dần dần”. (GE 272). Người giàu có nhất là người đã chia sẻ nhiều nhất. Đó mới là sự khôn ngoan đích thực. Đó chính là người giàu có mãi mãi trong nước Thiên Chúa. Tiền của là điều tốt lành Chúa ban cho, nhưng vì không biết sử dụng tiền của đúng ý Chúa nên nó biến thành tai họa.

Sự giàu có đã làm ông phú hộ rơi vào 4 điều sai lầm trầm trọng sau đây: (1) Tính tham lam. (2) Trông cậy vào tiền của. (3) Không chia sẻ cho người thiếu thốn. (4) Chỉ lo hưởng khoái lạc cho riêng mình. Những lý do đó có thể khiến kẻ giàu mất phần rỗi. Cũng chính vì thế mà Đức Giêsu kết luận:“Kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó”.

Trong kinh Lạy Cha, chúng ta xin cho hằng ngày dùng đủ. Biết đủ là đủ, đợi đủ biết bao giờ mới đủ. Với nhận thức như thế, nên chúng ta biết sắp xếp thời giờ “làm giàu trước mặt Thiên Chúa”: là sống yêu thương bác ái, biết vươn lên khỏi những ti tiện tầm thường, đồng thời dấn thân phục vụ và chăm lo cho những người nghèo khổ, yếu đau, hoạn nạn, đưa anh chị em sa lạc về với đoàn dân thánh Chúa…

Nếu Chúa cho chúng ta giàu có thì hãy đổ dồn tiền bạc vào những công cuộc từ thiện xã hội, lo mưu ích cho đời sống con người. Đức Thánh Cha Phanxicô nói như sau: “Nếu tôi có thể giúp ít nhất là một người có đời sống tốt hơn, thì với việc đó thôi cũng đã đủ để làm thành lễ vật đời tôi rồi.” (GE 274). Lễ vật quí báu nhất dâng cho Chúa không phải là phẩm vật bên ngoài, mà là đời mình khi sống với tất cả lòng nhân. “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 12, 7)

Xin cho chúng ta biết sử dụng mọi của cải đời này như phương tiện để làm nên gia sản đời sau — nơi “mối mọt không làm hư, kẻ trộm không đục vách lấy đi” (x. Mt 6,20); nơi mà chúng ta ngụp lặn trong tình yêu và sự sống sung mãn của Thiên Chúa.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!

Chúa cảnh giác nghiêm khắc về tiền của,

vì thấy nó là chính mối nguy cơ,

trở thành thần tượng người ta tôn thờ,

nên thiên hạ nói tiền là tiên là phật,

nhưng sự thật cho thấy lắm ê chề.

Tiền của dễ biến con người ra ti tiện,

thành keo kiệt và sinh lòng phản trắc,

bị mê hoặc nên lối sống nhập nhằng,

vì lợi lộc nên không còn ngay thẳng,

nguy hiểm hơn nữa là người Kitô hữu,

khi thành kẻ hai lòng thờ hai chủ.

Tiền tài và vật chất như ma lực,

làm điên đảo và tán tận lương tâm,

khiến người ta phải sống trong mê lầm,

nên Chúa gọi là tiền của bất chính,

Xin cho con tránh mọi thứ tham lam,

vì giá trị thực sự của đời con,

không phải là tiền bạc hay của cải,

mà là một tấm lòng đầy nhân ái,

biết cho đi và chia sẻ không ngừng,

Xin cho con mở rộng lòng quảng đại,

phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân,

dám dấn thân để làm đẹp nhân trần,

để gia sản của đời con mãi mãi,

là chính Chúa hạnh phúc chẳng tàn phai. Amen
 
Việc cả thể
Lm Minh Anh
14:00 31/07/2025
VIỆC CẢ THỂ
“Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin!”.

Trong “Phép Mầu Trên Sông Kwai” - “Miracle on the River Kwai” - Gordon viết về các tù binh bị buộc phải xây một con đường sắt trong rừng; họ trở nên man rợ - cho đến ngày một chiếc xẻng mất! Không ai nhận tội, viên sĩ quan Nhật rút súng bắn vào các tù nhân. Bỗng một người bước lên, anh bị đánh chết; về sau, chiếc xẻng được tìm thấy. Từ đó, các tù binh hết vô nhân tính, họ yêu thương nhau như gia đình. Người chết, một Kitô hữu, đã làm một việc cả thể - cứu sống nhân phẩm và mạng sống các bạn tù.

Kính thưa Anh Chị em,

Chúa Giêsu đã làm những ‘việc cả thể’ ở các thành, nhưng tại quê nhà của Ngài thì không, “Vì họ không tin!”.

Đang khi bản Việt ngữ, bản BJ. và TOB. tiếng Pháp gọi đây là những “phép lạ”, “miracles” thì bản NAB. của HĐGM Hoa Kỳ đơn giản gọi đây là những “việc cả thể”, “mighty deeds!”. Theo một số nhà chú giải, cách gọi này, xem ra gần gũi và dễ ao ước hơn!

‘Việc cả thể’ là việc biến đổi các linh hồn! Bởi lẽ, ‘linh hồn hoán cải’ mang một ý nghĩa lớn lao nhất, thiên đàng nhất và vĩnh cửu nhất… cũng là điều Chúa Giêsu tìm kiếm và chờ đợi. Buồn thay! Sau những phép lạ vật lý, điều đó đã không xảy ra tại quê nhà của Ngài - “Vì họ không tin!”. Lời Chúa Giêsu không thấu qua tai, chẳng thấm qua tim những đồng hương. “Thiên Chúa có thể làm việc với ai không biết, nhưng không thể làm gì với kẻ không tin!” - David Guzik. Rõ ràng, ngu dốt không đóng cửa, nhưng vô tín thì đóng cửa khiến Thiên Chúa tổn thương. Vô tín là sự không hài lòng với tình yêu và sự gần gũi của Ngài; chán ghét chính sự hiện diện và sự trợ giúp của Ngài.

Tuy nhiên, việc “Người không làm nhiều phép lạ tại đó” có nghĩa là ‘có’ làm, ít nữa một! Chi tiết này hé lộ - chí ít - đã có một linh hồn biến đổi. Dù chỉ một nhưng đủ cho thần thánh trên trời mừng vui, Chúa Giêsu vui mừng. Đó là ‘việc cả thể’ vĩ đại nhất. Hãy ước ao cho linh hồn mình được biến đổi! Vì bấy giờ, chúng ta sẽ nhận ra ‘dấu vết thánh’ của Chúa trong cuộc sống, ‘hiện diện thánh’ của Ngài trong tha nhân và ‘hoạt động thánh’ của Ngài trong công việc thường ngày! “Thiên Chúa và Con của Ngài có thể làm mọi sự, nhưng đã chọn giới hạn chính mình tuỳ theo sự đáp trả của con người!” - James Brooks.

Anh Chị em,

“Người không làm nhiều phép lạ tại đó”. “Không làm nhiều”, vì họ không chấp nhận việc “Nhập Thể” - Thiên Chúa trong hình hài một con người! Với họ, một vị thần trừu tượng, xa cách, chấp nhận một đức tin xa rời cuộc sống… sẽ thoải mái dễ chịu hơn. Cũng thế, chúng ta muốn một Thiên Chúa ‘hiệu ứng’, làm những điều ngoạn mục, luôn khơi dậy cảm xúc mạnh mẽ; vậy mà, thay vào đó, Ngài nhập thể - dịu dàng, ẩn mình - đến gần, sống cuộc sống bình thường của chúng ta. “Thiên Chúa không cưỡng ép những tấm lòng muốn xa lánh Ngài!” - Hiebert. Liệu điều tương tự cũng xảy ra với bạn và tôi? Liệu chúng ta sẽ đánh mất cơ hội không để Ngài làm được một ‘việc cả thể’ nào?

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, chạm lòng con, đừng chỉ lay mắt con. Đừng làm con loá mắt - hãy làm con thay lòng!”, Amen.

(Tgp. Huế)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Thánh Gioan Henry Newman sẽ được phong Tiến sĩ Hội Thánh
Vũ Văn An
14:49 31/07/2025
Thánh Gioan Henry Newman sẽ được phong Tiến sĩ Hội Thánh

Phạm vi công cộng


Tạp chí Aleteia, xuất bản ngày 31/07/2025, đưa tin: Đức Giáo Hoàng Lêô đã phê chuẩn việc công nhận vị Tiến sĩ Hội Thánh đầu tiên trong triều đại giáo hoàng của ngài.

Ngài là Tiến sĩ Hội Thánh đầu tiên được Đức Lêô XIV công bố, chưa đầy ba tháng sau khi được bầu chọn. Người tiền nhiệm của ngài, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, đã hai lần phong tặng danh hiệu này trong triều đại giáo hoàng của ngài: cho Thánh Gregory thành Narek vào năm 2015 và cho Thánh Irênê thành Lyon vào năm 2022. Đức Bênêđictô XVI cũng đã công bố hai vị Tiến sĩ mới: Thánh Hildegard thành Bingen và Thánh Gioan thành Avila vào năm 2012.

Văn phòng Báo chí Tòa thánh thông báo vào ngày 31 tháng 7 năm 2025: Theo quyết định của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV, Đức Hồng Y người Anh John Henry Newman (1801-1890), một trí thức Anh giáo đã trở lại Công Giáo, sẽ sớm được phong tặng danh hiệu "Tiến sĩ Hội Thánh".

Danh hiệu hiếm có và danh giá này — hiện đang được 37 vị thánh nắm giữ — được trao cho những nhân vật trong Giáo Hội Công Giáo có những đóng góp to lớn về thần học và tâm linh cho tín lý.

Trong buổi tiếp kiến hôm thứ Năm với Đức Hồng Y Marcello Semeraro, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, Đức Giáo Hoàng Lêô đã chấp thuận việc Bộ Phong thánh bỏ phiếu ủng hộ việc phong tặng Đức Hồng Y Newman là Tiến sĩ Hội Thánh. Bản ghi chú ngắn gọn không cung cấp thêm chi tiết về ngày công bố hoặc lý do cho sự đặc biệt này.

Đức Hồng Y Newman

Sinh ngày 21 tháng 2 năm 1801 tại London, John Henry Newman là con cả trong gia đình sáu người con. Sau khi học tại Đại học Oxford, ngài được thụ phong phó tế trong Giáo hội Anh giáo vào năm 1824 và trở thành linh mục một năm sau đó. Năm 1828, ngài trở thành cha xứ của Nhà thờ Đức Mẹ Đồng Trinh St. Mary the Virgin, nhà thờ đại học của Oxford.

Năm 1833, Newman xuất bản cuốn đầu tiên của bộ Luận văn Cho Thời Đại (TRacts for the Times), khởi đầu cho một loạt các ấn phẩm thần học truyền bá tư tưởng của điều sau này được gọi là "Phong trào Oxford". Phong trào này tìm cách đưa Giáo hội Anh giáo đến gần hơn với nguồn gốc Công Giáo Rôma, lên án những thái quá của Cộng đồng Anh giáo.

Những lời chỉ trích của Newman đối với Anh giáo đặc biệt được lấy cảm hứng từ Thánh Augustinô (354-430) và cuộc đấu tranh của ngài chống lại những kẻ dị giáo Đô-na-tô (Donatist).

Năm 1841, Luận văn 90, vốn tìm cách khẳng định rằng bản sắc giáo hội học của Giáo hội Anh mang tính Công Giáo nhiều hơn Thệ phản, đã bị Đại học Oxford kiểm duyệt và Giám mục Oxford đã đình chỉ việc xuất bản.

Trở lại Công Giáo

Năm 1843, John Henry Newman từ chức linh mục quản xứ. Ngày 9 tháng 10 năm 1845, ngài được Cha Domenico Barberi, một linh mục dòng Khổ Nạn người Ý, tiếp nhận vào Giáo Hội Công Giáo. Sau đó, ngày 1 tháng 11, Đức Hồng Y Nicholas Wiseman đã ban bí tích Thêm sức cho ngài tại Oscott.

Năm 1846, Newman rời Anh đến Rome và gia nhập Dòng Nguyện xá [Oratory] Thánh Philip Neri, nơi ngài được thụ phong linh mục Công Giáo vào ngày 30 tháng 5 năm 1847. Một năm sau, ngài thành lập Nguyện xá Anh đầu tiên gần Birmingham. Từ năm 1851 đến năm 1858, ngài là viện trưởng của Đại học Công Giáo Dublin (Ireland).

Bị xã hội Anh giáo và Thệ phản trong nước ruồng bỏ sau khi trở lại Công Giáo, ngài đã viết tác phẩm Apologia pro vita sua [Biện hộ cho đời mình] vào năm 1864 để trả lời sự công kích về tính chính trực của ông bởi linh mục Anh giáo người Anh Charles Kingsley (1819-1875). Tác phẩm, được coi là một cuốn tiểu sử có tầm hiểu biết sâu rộng, đã thành công vang dội, phần lớn giúp khôi phục lại hình ảnh của tác giả trong mắt công chúng Anh.

Vào tháng 5 năm 1879, John Henry Newman được Đức Lêô XIII tấn phong Hồng Y — khi ngài vẫn còn là một linh mục bình thường; ngài sẽ không bao giờ được thụ phong giám mục. Ngài qua đời vào ngày 11 tháng 8 năm 1890, tại Edgbaston, gần Birmingham.

Đức Bênêđictô XVI phong chân phước và Đức Phanxicô phong thánh

Quy trình phong thánh cho Đức Hồng Y Newman được mở vào năm 1958. Đức Gioan Phaolô II tuyên bố ngài là "Đấng đáng kính" vào năm 1991. Sau đó, Đức Bênêđictô XVI, người có mối quan hệ bản thân với vị trí thức này, đã nhất quyết cử hành lễ phong chân phước cho ngài - một nghi thức mà Đức Giáo Hoàng thường ủy thác cho một Hồng Y - vào ngày 19 tháng 9 năm 2010, trong chuyến tông du đến Birmingham.

Trong bài giảng, vị Giáo hoàng người Đức đã ca ngợi "những hiểu biết sâu sắc của ngài về mối quan hệ giữa đức tin và lý trí, và vị trí quan trọng của tôn giáo mặc khải trong xã hội văn minh." Ngài cũng ca ngợi quan niệm giáo dục của ngài, vốn có ảnh hưởng lớn đến các trường học và cao đẳng Công Giáo ngày nay. Các Trung tâm Newman là một phần của các trường đại học trên khắp Hoa Kỳ, là nơi sinh viên Công Giáo tụ họp để tham dự Thánh lễ và học tập.

Sau đó, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã phong thánh cho ngài vào ngày 13 tháng 10 năm 2019. Những lời dạy của Đức Hồng Y Newman, một người ủng hộ nhiệt thành cho nền giáo dục giáo dân, đã truyền cảm hứng cho Công đồng Vatican II (1962-1965). Vị Tiến sĩ người Anh này cũng được coi là một tông đồ vĩ đại của phong trào đại kết.

Tiến sĩ thứ 38 của Giáo hội

Với vị Tiến sĩ mới này, Giáo Hội Công Giáo hiện có 38 Tiến sĩ, trong đó có bốn phụ nữ.
 
Hiểu di sản của Đức Hồng Y Newman
Vũ Văn An
15:33 31/07/2025

Vatican Media


Nhân dịp phong thánh cho Đức Hồng Y Henry Newman năm 2019, John Burger của tạp chí Aleteia, ngày 21/02/2019, viết về di sản của vị thánh vĩ đại, người đã từ Anh Giáo chuyển qua Công Giáo. Ông viết:

Người Công Giáo không phải là những người duy nhất ăn mừng thông báo của Vatican tuần trước rằng Đức Hồng Y John Henry Newman sẽ được phong thánh. Theo Ryan J. Marr, Giám đốc Viện Nghiên cứu Newman Quốc gia tại Pittsburgh, Anh giáo có thể cũng sẽ ăn mừng. Marr nói: Mặc dù Newman đã rời khỏi Giáo hội Anh giáo vào giữa cuộc đời và có một số lời chỉ trích về điều đó, nhưng nhiều người Anh giáo ngày nay coi Newman là "một trong số họ".

Marr, người đã trò chuyện với Aleteia về cuộc đời của Newman và những đóng góp của ngài cho Giáo hội ngày nay, cũng tin rằng rất có thể một khi Newman được phong thánh, Vatican sẽ tiến thêm một bước nữa, tuyên bố ngài là Tiến sĩ Hội thánh. Chuyên môn cụ thể của Newman là giải thích tầm quan trọng của lương tâm, và các tác phẩm của ngài có lẽ còn nhiều điều đáng nói ngày nay, khi nhiều người tin rằng lương tâm được đặt lên trên việc theo đuổi chân lý.

John Henry Newman là ai?

Cuộc đời của Hồng Y Newman trải dài gần như toàn bộ thế kỷ 19, từ năm 1801 đến năm 1890. Nửa đầu cuộc đời ngài sống trong Giáo hội Anh. Năm 1845, ngài được tiếp nhận vào Giáo hội Rôma. Ngài là một nhà thơ, nhà thần học, nhà giáo dục và triết gia uyên bác, và vì vậy ngài đã dấn thân vào rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Khi Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nói về Newman, ngài nói rằng ngài đặc biệt được nhớ đến vì sự theo đuổi chân lý. Tôi nghĩ bạn có thể thấy rằng Newman là một tín đồ Anh giáo lỗi lạc, là nghiên cứu sinh tại Oxford, và là một mục sư nổi tiếng, và ngài đã bỏ lại phía sau triển vọng sự nghiệp và tình bạn để chuyển sang Giáo hội Rôma. Đó là niềm đam mê thôi thúc cuộc đời ngài; tôi nghĩ đó là lý do tại sao ngài vẫn là nguồn cảm hứng cho rất nhiều người.

Tư tưởng của ngài có ý nghĩa gì đối với Giáo hội ngày nay?

Một điều nổi bật đối với tôi từ các tác phẩm của ngài ngài là ngài nhận ra rằng có một sự hoài nghi ngày càng gia tăng trong xã hội nói chung. Vì vậy, ngài thực sự quan tâm sâu sắc đến việc đưa ra một bản tường trình về đức tin để đáp ứng một số thách thức của thời hiện đại. Ngài không chỉ quan tâm đến giới trí thức mà còn đến tất cả những người có đức tin.

Newman nói rằng ngài đã viết cuốn Grammar of Assent (1870) để bảo vệ đức tin của những người đơn giản và ít học. Ngài lập luận rằng việc những người như vậy tin vào Thiên Chúa là hợp lý ngay cả khi họ chưa nghiên cứu tất cả các lập luận về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Newman lưu ý rằng trong các lĩnh vực khác của cuộc sống, có nhiều niềm tin mà chúng ta chấp nhận mà chúng ta không thể chứng minh bằng các bằng chứng luận lý chặt chẽ. Cũng như một người nông dân giàu kinh nghiệm có thể nhận ra các dấu hiệu chỉ ra một cơn bão sắp xảy ra, thì một tín hữu tận tụy cũng dựa vào một loạt bằng chứng (mà Newman gọi là "xác suất hội tụ") để kết luận rằng có một Thiên Chúa nhân từ đã tạo ra muôn vật. Theo quan điểm của Newman, việc đặt niềm tin vào Thiên Chúa là một cam kết hợp lý, mặc dù hầu hết chúng ta không có thời gian để cân nhắc tất cả các lập luận liên quan hoặc nghiên cứu sâu về lịch sử thần học.

Newman nhấn mạnh mạnh mẽ vào điều mà tôi gọi là tính cấp thiết của sự thánh thiện, và ngài thừa nhận rằng điều này dành cho tất cả mọi người. Bạn thực sự có thể thấy một dấu hiệu báo trước cho sự nhấn mạnh của Công đồng Vatican II về lời kêu gọi nên thánh phổ quát.

Tại sao ngài được tuyên thánh?

Đối với tôi, khi tin tức này được công bố, tôi đã nghĩ lại về cách thức phong thánh trước đây. Trong Giáo hội sơ khai và trong phần lớn thời Trung cổ, không có quy trình chính thức như chúng ta có ngày nay. Nếu Giáo hội thêm một vị thánh vào lịch phụng vụ, đó là một sự xác nhận lòng sùng kính đã hiện hữu trên thực tế. Và tôi nghĩ đó thực sự là trường hợp của Newman. Các trung tâm sinh viên Công Giáo trong khuôn viên trường đại học được gọi là Trung tâm Newman. Ở Pittsburgh, chúng ta có Nhà nguyện Pittsburgh [Newman là một thành viên của Nhà nguyện], và đó là một trung tâm của lòng sùng kính sâu sắc và đời sống cầu nguyện chung.

Vì vậy, tôi nghĩ rằng đối với nhiều học giả, đối với nhiều người Công Giáo đến với đức tin hoặc quay trở lại đức tin ở trường đại học, họ đã cảm nhận được tác động từ lời chuyển cầu của Newman. Và tôi nghĩ rằng việc Đức Giáo Hoàng Phanxicô đưa ra quyết định này là một sự xác nhận rằng đã có những nơi, chắc chắn trên khắp Bắc Mỹ và trên toàn thế giới, nơi di sản của Newman, cả với tư cách là một nhà trí thức lẫn một con người thánh thiện sâu sắc, đã được cảm nhận.

Có điều gì gây tranh cãi về ngài hoặc lý do phong thánh không?

Trong cuộc khủng hoảng chủ nghĩa hiện đại vào đầu thế kỷ 20, khi Đức Giáo Hoàng Piô X lên án chủ nghĩa hiện đại, có một giám mục ở Ireland đã viết thư cho Đức Giáo Hoàng Piô và hỏi: "Liệu sự lên án này có giáng xuống cả Newman không?" Đức Giáo Hoàng Piô đã viết rằng không. Tôi nghĩ rằng một số người, khi nhìn lại trong tâm trí họ, đã thấy Newman là một người theo chủ nghĩa tự do hoặc tiến bộ vì ngài đã nói về sự phát triển của học thuyết, vì ngài ngài đã nói về việc tham khảo ý kiến của các tín hữu—những ý tưởng thực sự chỉ nên trọn vào thế kỷ 20. Nhưng nếu bạn đọc bài phát biểu của Newman khi ngài được Đức Leo XIII phong làm Hồng Y, ngài ngài đã khá kiên quyết cho rằng sợi chỉ xuyên suốt cuộc đời ngài là sự phản đối chủ nghĩa tự do. Ý của ngài khác với cách chúng ta nghĩ về thuật ngữ này ngày nay. Ngài nghĩ về chủ nghĩa tự do như một quan niệm cho rằng giáo lý không quan trọng, rằng một người có thể tin bất cứ điều gì họ muốn hoặc là một phần của tôn giáo này, tôn giáo kia hay tôn giáo khác. Newman phản đối ý tưởng đó.

Có những cuộc trò chuyện về khuynh hướng tình dục của Newman. Ông có một tình bạn rất thân thiết với Ambrose St. John, một tu sĩ dòng Oratorian khác. Nói về mối quan hệ này dưới góc độ khuynh hướng tình dục thực sự là lỗi thời. Đó là một minh chứng cho thấy rằng trong thời đại của chúng ta, chúng ta không có những hình mẫu tốt về tình bạn đồng giới giữa nam giới. Điều đó nói lên nhiều điều về chúng ta hơn là về Newman.

Vì ông là người trở lại từ Giáo hội Anh, liệu có lo ngại rằng việc thúc đẩy lý tưởng của ông sẽ xúc phạm đến người Anh giáo không?

Tôi chưa từng nghe nói đến điều này. Sau khi trở thành người Công Giáo, thỉnh thoảng ngài có những lời lẽ thẳng thừng liên quan đến Giáo hội Anh. Trong bối cảnh của chúng ta, một số lời lẽ đó nghe có vẻ không hợp với tinh thần đại kết. Nhưng phong trào đại kết này chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ 20.

Tôi không nghĩ người Anh giáo sẽ cảm thấy bị xúc phạm. Tôi đã gặp rất nhiều người Anh giáo coi Newman là một trong số họ. Ngài có một khối lượng tác phẩm đồ sộ được sáng tác với tư cách là một người Anh giáo. Ngài là một nhà lãnh đạo của Phong trào Oxford [vào những năm 1830, một phong trào tìm cách thu hút người Anh giáo về với nguồn gốc Công Giáo của họ]. Vì vậy, người Anh giáo, đặc biệt là những người theo Anh giáo-Công Giáo, vẫn tiếp tục tôn kính Newman, nghiên cứu các tác phẩm của ngài và xem ngài như một phần của di sản Anh giáo, chứ không chỉ đơn thuần là một người Công Giáo. Vì vậy, tôi nghĩ rằng, đặc biệt đối với nhóm người này, việc phong thánh cho Newman là một sự khẳng định cho lòng sùng kính của họ đối với nhân vật vĩ đại của thế kỷ 19 này.

Ai là những người có khả năng vui mừng nhất trước tin tức này?

Bất cứu cộng đồng Nguyện Xá nào trên thế giới chắc chắn đều phấn khích. Khi gia nhập Giáo Hội Công Giáo, ngài đã băn khoăn không biết nên gia nhập dòng tu nào, và cuối cùng ngài đã chọn các cộng đồng Nguyện Xá, vốn có nguồn gốc từ Thánh Philip Neri.

Rất nhiều học giả cũng vậy. Một số người cho rằng Newman có thể là thánh bổn mạng của các học giả, hoặc giới trí thức. Ngài đã viết một cuốn sách nổi tiếng có tên là Ý tưởng về một trường Đại học [The Idea of a University]. Ngài đã nói rất nhiều về ý nghĩa của việc yêu Thiên Chúa hết lòng.

Và tôi nghĩ rằng rất nhiều người trở lại Công Giáo có lòng sùng kính ngài. Cuốn Apologia Pro Vita Sua (Bảo vệ cuộc đời tôi) của ngài là một trong những cuốn tự truyện tâm linh hiện đại tuyệt vời. Tôi đã nói chuyện với rất nhiều người đến với Giáo hội từ các cộng đồng Thệ Phản, và Newman đã giúp họ giải quyết một số câu hỏi thần học mà họ đang trăn trở.

Liệu có ai nói rằng cuối cùng ngài có thể được phong làm Tiến sĩ Hội thánh không?

Có chứ. Tôi nghĩ sẽ có một số phân định xung quanh vấn đề này sau khi ngày phong thánh được xác định. Một trong những người sáng lập Viện Nghiên cứu Newman Quốc gia là Cha Drew Morgan, một tu sĩ dòng Nguyện Xá tại Pittsburgh. Vài năm trước, ngài đã viết một bài báo nói rằng Newman nên và có thể được phong là Tiến sĩ Lương tâm. Đặc biệt là vào khoảng thời gian Công đồng Vatican I, Newman đã viết rất nhiều về việc hiểu đúng đắn về lương tâm là gì, và việc tuân theo lương tâm có nghĩa là gì trong bối cảnh chúng ta là thành viên của một Giáo hội nói rằng có một thẩm quyền mà chúng ta phải lắng nghe trong cuộc sống của mình.

Ngài sẽ giải thích giáo huấn của ngài về lương tâm như thế nào?

Newman mô tả lương tâm là "người đại diện nguyên thủy của Chúa Kitô". Ý ngài là chính qua lương tâm mà chúng ta lần đầu tiên nghe thấy tiếng Thiên Chúa phán với chúng ta. Dựa trên quan điểm này, Newman nhấn mạnh rằng chúng ta buộc phải tuân theo lương tâm của mình mọi lúc. Nếu không sẽ làm suy yếu khả năng sống một đời sống đạo đức mạch lạc. Newman lập luận rằng Giáo hội sẽ thật ngu ngốc nếu công kích tầm quan trọng của việc tuân theo lương tâm. Làm như vậy, huấn quyền thực chất sẽ chặt đứt chính nhánh cây mà nó đang bám vào, bởi vì chính nhờ lắng nghe lương tâm mà con người mới có thể nhận ra tính chân thực của thần học luân lý Công Giáo và bước đi trên con đường nên thánh.

Tuy nhiên, Đức Hồng Y Newman cũng cảnh báo về một cách hiểu sai lầm về lương tâm, vốn hiểu lương tâm là “quyền tự ý” – quyền tự định nghĩa đúng sai cho chính mình. Dưới góc độ này, chỉ nói về tính ưu việt của lương tâm mà không đề cập đến tầm quan trọng của việc đào tạo lương tâm đúng đắn là chưa đủ. Những người đặt lương tâm đối lập với giáo huấn của Giáo hội đã không nhận ra cách Thiên Chúa đã an bài cho Giáo hội như một người dẫn đường đáng tin cậy trong đời sống luân lý. Lương tâm và thẩm quyền của Giáo hội tồn tại trong một mối quan hệ hỗ tương, chứ không phải cạnh tranh.

Cuốn sách nào của Đức Hồng Y Newman có thể là một dẫn nhập hay đối với một người chưa biết gì ngài?

Khi mọi người lần đầu tiên hỏi tôi nên bắt đầu từ đâu, tôi thường giới thiệu họ đến những bài giảng của ngài. Đặc biệt là từ thời còn theo Anh giáo, ngài đã có sáu tập Bài giảng Giáo xứ và Bài giảng Thường nhật [Parochial and Plain Sermons]. Đó có thể là những nguồn tài liệu thực sự hữu ích cho việc suy niệm.

Một nguồn tài liệu tuyệt vời khác là cuốn Suy ngẫm và Sùng kính [Meditations and Devotions] của ngài, một tuyển tập những lời cầu nguyện rất đẹp và sâu sắc.
 
Người tạo YouTube muốn mời Đức Giáo Hoàng tham gia hành trình trực tuyến
Vũ Văn An
15:47 31/07/2025

Benoît Gelebart à Rome. CD I Aleteia


Camille Dalmas của tạp chí Aleteia, ngày 31/07/2025, đưa tin: Tại Rome nhân dịp Năm Thánh, YouTuber Benoît Gélébart muốn mời Đức Giáo Hoàng Leo XIV tham gia một chuyến tông du chưa từng có: lục địa kỹ thuật số Internet...

Benoît Gélébart là một trong số hàng ngàn người tụ họp tại Rome nhân dịp Đại lễ của các Nhà truyền giáo Thế giới Kỹ thuật số và những Người Công Giáo gây ảnh hưởng. Cùng với người bạn Thibault Pfeffer, người đang ở Pháp, ngôi sao truyền thông trẻ tuổi này chia sẻ suy nghĩ của mình về công cuộc truyền giáo trên kênh YouTube của mình, Two Disciples, với hơn 17,000 người theo dõi. Được mời tham gia cùng các nhà sáng tạo nội dung Công Giáo trong sự kiện này, anh rất vui mừng khi khám phá cách những người đồng Công Giáo từ khắp nơi trên thế giới truyền tải niềm vui Tin mừng trên mạng xã hội.

Gélébart đã có cơ hội gặp Đức Giáo Hoàng Phanxicô vài năm trước và hy vọng được chào đón Đức Leo XIV. Anh có một đề xuất dành cho ngài.

Một đề xuất cho thế kỷ 21

Ngôi sao YouTuber này có một ước mơ lớn mà anh hy vọng sẽ hiện thực hóa: khởi xướng chuyến tông du đầu tiên của một vị giáo hoàng... trên Internet.

AAnh giải thích: "Cũng như việc ngài sẽ đến Bỉ và Thái Lan để gặp gỡ các tín hữu ở những quốc gia đó, chúng tôi cảm thấy Đức Giáo Hoàng cần phải hiện diện trên Internet".

Bằng cách này, ngài sẽ tiếp cận những người trẻ tuổi sử dụng các mạng lưới hiện có hàng ngày.

"Đó sẽ là một thông điệp tuyệt vời cho thế giới", chàng trai trẻ nhiệt tình nói, so sánh sự kiện này với "Ngày Giới trẻ Thế giới trên Internet".

"Nó sẽ không thay thế Ngày Giới trẻ Thế giới hay bất cứu hình thức tụ họp nào khác", anh nhấn mạnh, nhưng "nó sẽ bổ sung cho các cuộc gặp gỡ trực tiếp vốn rất quan trọng".

“Chuyến đi sẽ kết thúc bằng một sự kiện trực tiếp lớn, nơi chúng ta có thể hình dung một buổi hỏi đáp trên Twitch hoặc YouTube...”

Và chuyến tông du chưa từng có này sẽ diễn ra như thế nào?

"Mọi thứ vẫn chưa được quyết định, nhưng cũng giống như Đức Giáo Hoàng gặp gỡ các nhà lãnh đạo tôn giáo, linh mục và người nghèo khi ngài đến thăm một quốc gia, chúng ta có thể hình dung những cuộc gặp gỡ tương tự trong ba ngày, nhưng trên Internet.

"Ngài sẽ gặp gỡ các nhà truyền giáo Internet, nhưng cũng gặp gỡ các nạn nhân của Internet, chẳng hạn như nạn nhân của nội dung khiêu dâm. Và chuyến đi sẽ kết thúc bằng một sự kiện trực tiếp lớn, trong đó Đức Giáo Hoàng sẽ truyền tải một thông điệp mạnh mẽ, và nơi chúng ta có thể hình dung một buổi hỏi đáp, ví dụ như trên Twitch hoặc YouTube..."

Gélébart hy vọng sẽ tìm được sự hỗ trợ cho dự án của mình tại Rome và kỳ vọng nó sẽ phát triển. Chàng trai trẻ nói: Điều quan trọng nhất là "đưa Đức Giáo Hoàng lên Internet để ngài có thể cho thấy rằng lục địa này cần được truyền giáo ngay hôm nay và Giáo hội phải ở đó vì tất cả mọi người".
 
Năm Thánh Giới Trẻ: Gặp gỡ những nhà truyền thông Công Giáo dũng cảm đang kể lại câu chuyện của mình
Vũ Văn An
18:30 31/07/2025

Một số người tham gia Học viện Mùa hè EWTN 2025 tại Rome, một chương trình chuyên sâu về báo chí tôn giáo và kể chuyện kỹ thuật số, đến từ những nơi mà người Công Giáo sống đức tin giữa nghịch cảnh khắc nghiệt. | Nguồn: Lemmy Ogbonnaya Ijioma/Học viện Mùa


Courtney Mares của hãnf tin CNA, ngày 31 tháng 7 năm 2025, viết từ Thành phố Vatican:

Mikhail Ajjan cùng gia đình đã chạy trốn khỏi Syria, đất nước bị chiến tranh tàn phá và nỗi kinh hoàng của ISIS khi anh mới 10 tuổi. Hiện là sinh viên đại học ở Thụy Điển, chàng trai Công Giáo 21 tuổi này phải đối diện với một thách thức hoàn toàn khác, đó là sống đức tin trong một môi trường thế tục và đang trau dồi kỹ năng truyền thông của mình để giúp truyền bá TTin mừng.

Ajjan là một trong hơn 40 thanh niên Công Giáo đến từ 23 quốc gia đã cùng nhau tham gia khóa đào tạo tại Học viện Mùa hè EWTN 2025 tại Rome, một chương trình chuyên sâu về báo chí tôn giáo và kể chuyện kỹ thuật số, diễn ra trùng với Năm Thánh Giới trẻ của Giáo Hội Công Giáo trong năm nay.

Một số học viên của học viện đến từ những nơi mà người Công Giáo sống đức tin giữa nghịch cảnh khắc nghiệt — từ vùng chiến sự đến những quốc gia nơi bạo lực của các băng đảng hoặc sự đàn áp tôn giáo đe dọa các cộng đồng Kitô giáo.

Trong số đó có Nicolawos Hazboun, một chuyên viên truyền thông đa phương tiện đến từ Bethlehem, người hợp tác chặt chẽ với Đức Hồng Y Pierbattista Pizzaballa để ghi lại cuộc sống tại Đất Thánh cho Tòa Thượng phụ Công Giáo Latinh Jerusalem.

Vào một buổi chiều gần đây, Hazboun, 26 tuổi, đã dừng lại để suy gẫm về tình hình hiện tại mà người Công Giáo Palestine ở Bethlehem đang phải đối diện.

Anh nói: “Thật may mắn cho chúng tôi khi được ở cùng nơi Chúa Giêsu sinh ra. Gia đình tôi là một trong những gia đình Kitô giáo lớn nhất ở Bethlehem. … Chúng tôi đã ở Bethlehem hơn 500 năm… Và chúng tôi muốn ở lại.”

Nhưng việc ở lại không hề dễ dàng. Hazboun nói: “Ngày nay, tình hình của chúng tôi rất tồi tệ vì chiến tranh. Chúng tôi không có bất cứ nhóm hành hương nào… từ bên ngoài. Người dân Bethlehem… phụ thuộc vào khách du lịch. Chúng tôi không có thu nhập.”

Anh nói thêm rằng nhiều gia đình Kitô hữu ở Bethlehem đang di cư sang châu Âu hoặc Bắc Mỹ. “Chúng tôi muốn số lượng Kitô hữu ở Bethlehem tăng lên, nhưng thật không may, số lượng Kitô hữu ở Bethlehem đang giảm dần vì tình hình hiện tại.”

Hazboun hy vọng sẽ mang những kỹ năng học được tại Học viện Mùa hè EWTN trở lại Bethlehem và Jerusalem để giúp anh truyền tải tốt hơn trải nghiệm của các Ki-tô hữu tại Đất Thánh.

Hazboun nói: “Mọi người luôn ngạc nhiên khi thấy có… những người tKKi-tô hữu Palestiin. Tôi muốn họ biết rằng chúng tôi là một cộng đồng vững mạnh.”

“Vẫn còn các Ki-tô hữu ở Bethlehem. … Không phải tất cả người Palestine đều theo đạo Hồi.”

Học viện Mùa hè EWTN, do mạng lưới truyền thông Công Giáo hoàn cầu EWTN, công ty mẹ của CNA, tổ chức, hiện đang bước sang năm thứ tư đào tạo những người truyền thông đầy tham vọng về các kỹ năng từ biên tập video đến tường thuật. Học viện được tổ chức tại trung tâm CIAM của Đại học Giáo hoàng Urban, với tầm nhìn toàn cảnh Rome và mái vòm của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, và được cung cấp miễn phí cho người tham gia.

Sơ Mary Iyadunni Adeniyi, 27 tuổi, một thành viên người Nigeria của Dòng Nữ tu Tổng Lãnh Thiên Thần Michael, chia sẻ trong chuyến hành hương đầu tiên đến Rome để tham gia học viện: “Tôi cảm thấy gần gũi với thiên đàng”.

Bà nhớ lại rất rõ vụ thảm sát Lễ Hiện Xuống năm 2022 tại Nhà thờ Công Giáo Ancis ở Owo, Nigeria, nơi hàng chục người Công Giáo đã bị sát hại.

Bà nói: “Thật đau lòng khi bạn chỉ cần ra ngoài và bạn có thể bị giết. Chúng tôi cầu xin Chúa giúp đỡ đức tin của chúng tôi và Chúa có thể khôi phục hòa bình cho đất nước chúng tôi.”

Mặc dù vậy, Sơ Mary vẫn cam kết xây dựng một tương lai đầy hy vọng. Sơ giải thích: “Đặc sủng của dòng tôi là truyền giáo thông qua hội nhập văn hóa”.

“Giờ đây, thế giới là kỹ thuật số… vì vậy chúng tôi cũng phải sử dụng nó để truyền giáo.” Sơ biên tập video, thiết kế đồ họa và tin tưởng mạnh mẽ vào tiềm năng của các nền tảng trực tuyến trong việc tiếp cận trái tim người trẻ.

Sơ nói: “Bạn có thể tìm thấy những người trẻ tuổi ở thế kỷ 21 ở đâu? Trên các phương tiện truyền thông”.

Tại Việt Nam, Bùi Nguyên Tâm, 31 tuổi, làm việc với Hội đồng Giám mục Việt Nam và cũng là tình nguyện viên cho Tổng giáo phận Sài Gòn.

Bùi Nguyên Tâm, 31 tuổi, làm việc với Hội đồng Giám mục Việt Nam và cũng là tình nguyện viên cho Tổng giáo phận Sài Gòn. Nguồn: Lemmy Ogbonnaya Ijioma/Học viện Mùa hè EWTN


Nguyên chia sẻ: “Mặc dù chúng tôi là một nhóm thiểu số trong dân số — khoảng 7% trong số 100 triệu người trên cả nước — nhưng chúng tôi có những trải nghiệm sâu sắc về đời sống gia đình… và lòng sùng kính trong các nhà thờ”.

Anh nói: “Trong Học viện Mùa hè EWTN 2025, chúng tôi được đồng hành cùng 43 nhà truyền thông đến từ 23 quốc gia. Chúng tôi đến từ những hoàn cảnh khác nhau, cũng như những trải nghiệm đức tin khác nhau. Tôi thực sự học hỏi được nhiều điều khi trò chuyện với những người khác về cách họ sống đức tin tại đất nước của họ. Đối với một số người, điều đó thật tự do và rất thú vị, nhưng đôi khi cũng gặp khó khăn”.

Nguyên đã dịch một số tác phẩm của Thánh Gioan Phaolô II sang tiếng Việt và là một người kỳ cựu trong các buổi họp mặt giới trẻ Công Giáo trên khắp châu Á. Anh cho biết người Công Giáo tại Việt Nam đang hy vọng Đức Giáo Hoàng Lêô XIV sẽ sớm đến thăm Việt Nam. “Chúng tôi cố gắng cầu nguyện cho mối quan hệ giữa Việt Nam và Tòa Thánh ngày càng tốt đẹp hơn.”

Đối với Ajjan, Năm Thánh Giới Trẻ sẽ là sự tiếp nối của trải nghiệm bổ ích mà anh đã có được tại Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần trước.

“Tôi đã tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ở Bồ Đào Nha và tôi đã bị cuốn hút. Vì vậy, tôi đã nghĩ, ‘Mình sẽ tham dự Năm Thánh. Mình sẽ đến Hàn Quốc,” anh nói khi nhắc đến Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 2027 tại Seoul.

Ajjan cũng đã tìm ra cách để phục vụ cộng đồng Công Giáo địa phương của mình. Với EWTN Thụy Điển, anh giúp một linh mục trẻ sản xuất một loạt video bài giảng hàng tuần.

Anh giải thích: “Ở thành phố của chúng tôi, chúng tôi có một vị mục tử trẻ rất giỏi. Và chúng tôi đã bắt đầu quay một loạt bài giảng Chúa Nhật với ngài. Vì vậy, mỗi thứ Tư, chúng tôi quay phim, biên tập và sau đó phát hành vào sáng Chúa Nhật.… Thật sự rất vui.”

Đến từ Lebanon, Marguerita Kallassy là một nhà báo nói được ba thứ tiếng của ACI MENA, đối tác tin tức tiếng Ả Rập của CNA, cũng thuộc sở hữu của EWTN. Cô đã đưa tin về mọi thứ, từ các cuộc biểu tình đường phố đến các cuộc diễu hành tôn giáo lớn. Nhưng trái tim cô nằm ở việc kể những câu chuyện Công Giáo.

Cô chia sẻ: “Thật kỳ diệu khi mang đến một vùng đất phương Đông vẫn tin rằng… vẫn dành một vị trí cho Chúa Giêsu trong cuộc sống của họ”.

Cô muốn sửa chữa quan niệm sai lầm phổ biến cho rằng Kitô giáo gần như đã biến mất khỏi Trung Đông.

“Mọi người không bao giờ nhận ra quy mô [của Kitô giáo] ở phương Đông. … Họ nghĩ rằng chúng tôi chỉ có cộng đồng Hồi giáo ở Lebanon, vì vậy tôi thực sự cần phải nói với mọi người rằng đây là nơi Chúa Giêsu ra đời. Ý tôi là — Chúa Giêsu không phải người New Jersey, bạn biết không?” cô nói đùa.

Cô cho biết: “Công việc của tôi với EWTN đã truyền cảm hứng cho tôi đến nỗi tôi đã nộp đơn vào Sorbonne… ngành nghiên cứu truyền thông”. Kallassy sẽ bắt đầu chương trình sau đại học tại Paris vào mùa thu.

Daniela Sánchez y Sánchez, 21 tuổi, lớn lên ở Puebla, Mexico, và hiện đang theo học báo chí ở Tây Ban Nha.

Cô chia sẻ: “Từ khi còn nhỏ, tôi đã luôn muốn biết… mọi thứ về mọi thứ”. Cô bắt đầu làm việc với Đài phát thanh Maria và Tổng giáo phận Puebla để đưa tin về Giáo hội địa phương và mang thông điệp đức tin đến một đất nước đang bị tàn phá bởi bạo lực ma túy.

Cô nói: Phản ứng của Giáo hội luôn là cầu nguyện — ngay cả đối với những kẻ gây ra bạo lực. “[Chúng tôi] cầu nguyện cho tất cả các nạn nhân, cho tất cả các linh mục đã bị ảnh hưởng bởi điều này, và cầu nguyện cho những người… xấu xa và muốn làm điều xấu cho cộng đồng của chúng tôi. Tất cả chúng ta cần có lòng thương xót và cầu nguyện cho họ.”

Ngồi trong tầm nhìn của Nhà thờ Thánh Phêrô Sánchez đã vô cùng kinh ngạc trước trải nghiệm này. “Nếu bạn muốn truyền bá thông điệp của Chúa trên khắp thế giới và trong ngành báo chí, thì đây chính là cơ hội tuyệt vời nhất mà Chúa đã ban cho chúng ta.”
 
Bản đồ hiển thị các quốc gia nơi các tín hữu Kitô không còn chiếm đa số
Đặng Tự Do
19:04 31/07/2025


Dữ liệu mới từ Trung tâm nghiên cứu Pew cho thấy số lượng quốc gia có đa số người theo Kitô giáo đã giảm trong một thập niên qua.

Trong khi hầu hết các quốc gia vẫn có đa số dân theo Kitô giáo - với hơn một nửa dân số ở những quốc gia đó tự nhận là người theo Kitô giáo - thì đã có sự suy giảm trong thập niên qua - khi Vương quốc Anh, Pháp, Uruguay và Úc không còn nằm trong nhóm này nữa. Thậm chí, với đà tăng trưởng mạnh mẽ của dân số Hồi Giáo, trong số 4 quốc gia nói trên Anh, Pháp, và Úc có thể trở thành các quốc gia Hồi Giáo trong vài thập niên nữa.

Trước đây, vào năm 2010, tỷ lệ người theo Kitô giáo ở 4 quốc gia này lần lượt là 49%, 46%, 44% và 47%.

Uruguay là quốc gia duy nhất ở Mỹ Châu không có đa số dân theo Kitô giáo vào năm 2020, mặc dù Guiana thuộc Pháp là một tỉnh hải ngoại của Pháp nằm trên bờ biển đông bắc Nam Mỹ có đa số dân theo Kitô giáo.

Trung tâm nghiên cứu Pew đưa tin, hàng triệu người theo Kitô giáo trên toàn cầu đã bỏ đạo trong những năm gần đây, khiến số lượng người theo Kitô giáo ở nhiều quốc gia giảm trong thập niên qua. Một lý do khác là sinh suất của các Kitô Hữu quá nhỏ so với các nhóm khác, cụ thể là Hồi Giáo.

Những phát hiện của trung tâm cũng cho thấy sự gia tăng về số lượng các quốc gia có đa số dân cư không theo tôn giáo nào - với 10 quốc gia thuộc danh mục này vào năm 2020, nhiều hơn ba quốc gia so với năm 2010.

Nhìn chung, dữ liệu cho thấy 120 trong số 201 quốc gia và vùng lãnh thổ được nghiên cứu có đa số dân theo Kitô giáo vào năm 2020, ít hơn bốn quốc gia so với năm 2010.

David Voas, giáo sư khoa học xã hội tại Đại học Luân Đôn, phát biểu với Newsweek rằng lý do Anh, Pháp, Uruguay và Úc không còn đa số theo Kitô giáo là do “quá trình ly khai tôn giáo kéo dài và dần dần đã diễn ra trong nhiều thập niên”.

“ Khi những người lớn tuổi và sùng đạo hơn qua đời, họ sẽ được thay thế trong dân số bởi những người trẻ tuổi và ít sùng đạo hơn”.

Voas cho biết cũng có “một số người bỏ đạo khi trưởng thành”, nhưng thông thường sự thay đổi lớn nhất xảy ra “giữa các thế hệ chứ không phải trong cùng một thế hệ”.

Nói rộng hơn, nhiều quốc gia có đa số dân theo Kitô giáo đã chứng kiến “sự suy giảm về tỷ lệ dân số tự nhận mình là người theo Kitô giáo”, Paul Seabright, giáo sư kinh tế tại Đại học Toulouse Capitole, Pháp, phát biểu với Newsweek.

Seabright cho biết một nguyên nhân khác là sự gia tăng tình trạng không có con, có hai tác động - thứ nhất, ít trẻ em được sinh ra từ cha mẹ theo Kitô giáo hơn và thứ hai, các cặp vợ chồng không có con và những người trẻ tuổi độc thân ít có khả năng tham gia các nhà thờ Kitô Giáo hơn so với các cặp vợ chồng có con.

Ông nói thêm rằng có thể có những biến thể từ xu hướng này vì “một số người trẻ hiện chưa có con, đặc biệt là Thế hệ Z, có khả năng sẽ trở nên sùng đạo hơn khi họ có con”.

Ông cho biết công nghệ cũng có thể có tác động, vì những người còn là thanh thiếu niên khi iPhone ra mắt vào năm 2007 giờ sẽ bước vào độ tuổi 30 và “mới bắt đầu vật lộn với những thách thức của việc lập gia đình”.

Ông cho biết: “Điều này sẽ giúp nhiều người thoát khỏi thế giới ảo để hòa nhập vào cộng đồng thực tế hơn”.

Một yếu tố khác, theo Seabright, là “ở nhiều quốc gia, các nhà thờ Kitô giáo gắn liền với giới cầm quyền bảo thủ, điều này dần làm xói mòn tính chính danh của họ, đặc biệt là ở những quốc gia mà Giáo hội ủng hộ các chế độ cực kỳ bảo thủ hoặc độc tài. Ví dụ bao gồm Tây Ban Nha và Chí Lợi, nhưng cũng có ở Ireland, Anh và Đức.”

Ngoài ra, “những vụ tai tiếng về lạm dụng tình dục, thể chất và tài chính đã dẫn đến một số lượng lớn người rời khỏi Giáo Hội, ví dụ như ở Đức, Pháp, Ái Nhĩ Lan, Hoa Kỳ”

Seabright cảnh báo rằng tội lỗi lạm dụng tình dục trong Giáo Hội đã bị khuếch đại bởi các thế lực chống Giáo Hội Công Giáo và cả một số Giám Mục Đức, những người thường được gắn mác là “lạm dụng lạm dụng”. Tức là họ lạm dụng tình trạng lạm dụng như một chiêu bài cổ suý cho các chương trình nghị sự cấp tiến của họ. Seabright cho biết Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã rất đúng và chính xác khi nói rằng “tội lỗi lạm dụng tình dục xảy ra chủ yếu trong bối cảnh gia đình.”


Source:Newsweek
 
Nhật ký trừ tà #354: Làm im lặng kẻ tố cáo vĩ đại
Đặng Tự Do
19:05 31/07/2025


Đức Ông Stephen Rossetti, Nhà Trừ Tà của giáo phận Syracuse, phó giáo sư nghiên cứu tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ vừa có bài viết nhan đề “Exorcist Diary #354: Silencing the Great Accuser*”, nghĩa là “Nhật ký trừ tà #354: Làm im lặng kẻ tố cáo vĩ đại*”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Là con người sau sự sa ngã của A-đam và Ê-va, tất cả chúng ta đều trải qua những khiếm khuyết còn sót lại của nhân tính sa ngã. Ví dụ, tất cả chúng ta đều bị bệnh; chúng ta bị những đam mê rối loạn; trí tuệ chúng ta bị lu mờ; và trạng thái tinh thần của chúng ta không còn hoàn toàn khỏe mạnh và thánh thiện nữa. Điều này không hề xảy ra trước khi A-đam và Ê-va sa ngã.

Một hậu quả tiêu cực của sự Sa Ngã là một cảm nhận rối loạn về bản thân: chúng ta dễ bị tổn thương bởi lòng tự trọng thấp, hoặc biểu hiện dường như trái ngược của nó là tính tự luyến (thực ra chỉ là một lớp vỏ bọc giả tạo che đậy hình ảnh bản thân đã bị tổn thương này). Satan biết rõ sự yếu đuối của chúng ta. Hắn sẽ lợi dụng nó bất cứ khi nào có thể. Lũ tay sai của hắn âm thầm tấn công chúng ta bằng những suy nghĩ tự hạ thấp bản thân, hy vọng dẫn chúng ta đến một trong những trạng thái ưa thích của hắn: là tuyệt vọng. Hắn là “kẻ tố cáo lớn” (Khải Huyền 12:10).

Làm sao chúng ta biết được những lời tự vấn tiêu cực trong đầu mình đang được tiếp sức bởi Kẻ Tố Cáo Vĩ Đại (tức là những ám ảnh ma quỷ)? Một số dấu hiệu rõ ràng là: những suy nghĩ tiêu cực xuất hiện khá đột ngột; chúng dữ dội một cách bất thường; chúng phóng đại thực tế; chúng cám dỗ tâm hồn đến tuyệt vọng. Một số hoặc tất cả chúng có thể tan biến khi được đáp lại bằng lời cầu nguyện.

Sau đây là ba bước sẽ giúp ích nếu những suy nghĩ trong đầu bạn đang bị Satan phóng đại, tức là chúng là nỗi ám ảnh của ma quỷ:

Thứ nhất. Nhận ra sự hiện diện của Satan và “loại bỏ” những suy nghĩ tiêu cực mạnh mẽ này. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng những suy nghĩ dày vò này không phải của bạn; chúng đến từ Satan.

Thứ hai. Hãy thẳng thắn từ chối chúng, tốt nhất là nói to, nói ba chữ R: “Nhân danh Chúa Giêsu, tôi từ chối chúng; tôi khiển trách chúng; tôi từ bỏ chúng; và tôi đuổi chúng ra.” Bạn có thẩm quyền đối với cơ thể và tâm trí của mình, vậy hãy ra lệnh cho Satan rời đi!

Thứ ba. Hãy chào đón Thiên Chúa, Đấng yêu thương và tha thứ cho bạn. Hãy thưa: “Lạy Chúa Giêsu, con là kẻ tội lỗi, nhưng Chúa yêu thương con, Chúa tha thứ cho con, Chúa ban cho con sự bình an của Chúa.”

Điều nguy hiểm nhất của những ám ảnh ma quỷ là Ác Quỷ ẩn mình nên người ta không nhận ra nguồn gốc tội lỗi của mình. Người ta có thể tin rằng mình có khiếm khuyết khủng khiếp và sẽ mãi mãi bị dày vò. Đáng buồn thay, tôi tin rằng không ít linh hồn đã rơi vào cái bẫy này và bị cám dỗ kết liễu cuộc đời. Khi linh hồn nhận ra và chấp nhận hành động của Satan, rồi từ chối và trục xuất hắn, những đau khổ của Satan thường giảm bớt, nếu không muốn nói là hoàn toàn im lặng.

Linh hồn nên thường xuyên đặt nền tảng trên những chân lý căn bản của Kitô giáo: Satan là bụi đất. Chúa Giêsu là Chúa. Chúa Giêsu yêu thương tôi và tha thứ cho tôi. Thiên Chúa cho phép Satan cám dỗ và quấy nhiễu tôi trong cuộc đời này, giống như chính Chúa Giêsu đã chịu đau khổ và chết. Nhưng Thiên Chúa sẽ ban cho tôi sức mạnh để kiên trì. Những cám dỗ này được phép xảy ra để tôi được thánh hóa - tôi được chia sẻ những đau khổ của Chúa Kitô.

Tôi rất tiếc khi bất kỳ ai trong số anh chị em phải chịu đựng những đau khổ về tinh thần. Đáng buồn thay, đó là hậu quả của tội nguyên tổ, sau đó bị Satan lợi dụng và khuếch đại. Nhưng Chúa đã mang lại ân sủng từ đau khổ, cũng như Ngài đã mang lại sự sống mới của sự phục sinh từ thập giá của Chúa Giêsu. Hãy tiếp tục cuộc chiến đấu tốt đẹp! Thế giới cần các bạn; đạo quân của Chúa cần anh chị em. Anh chị em có giá trị vô hạn trong mắt Chúa, và đó là tất cả những gì quan trọng.


Source:Catholic Exorcism
 
Đức Giáo Hoàng: Người di cư là nhân chứng của hy vọng trong một thế giới bị tàn phá
Đặng Tự Do
19:06 31/07/2025


Trong Sứ điệp nhân Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn lần thứ 111, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV nhấn mạnh đến chứng tá quan trọng mà những người di cư và tị nạn Công Giáo có thể mang đến trong một thế giới bị ảnh hưởng bởi xung đột và bất bình đẳng khi tiếp tục hy vọng và tìm kiếm một tương lai tốt đẹp và hòa bình hơn.

Đức Giáo Hoàng Lêô XIV nhấn mạnh cách thức người di cư và người tị nạn có thể trở thành chứng nhân của hy vọng và sự kiên trì trong nghịch cảnh một cách đặc biệt và kêu gọi một tương lai hòa bình và tôn trọng nhân phẩm con người, trong Thông điệp nhân Ngày Thế giới Người di cư và Người tị nạn lần thứ 111, được công bố vào thứ sáu, ngày 25 tháng 7.

Năm nay, thay vì được tổ chức vào ngày 24 tháng 9 như thường lệ, Ngày Thế giới Di dân và Truyền giáo sẽ trùng với Năm Thánh Di dân và Truyền giáo, diễn ra vào ngày 4 và 5 tháng 10. Sự kiện thường niên này khuyến khích các tín hữu thể hiện sự ủng hộ và gần gũi với hàng triệu người buộc phải rời bỏ nhà cửa và quê hương. Theo Liên Hiệp Quốc, vào cuối năm 2024, khoảng 123,4 triệu người trên toàn thế giới đã phải di dời do bị đàn áp, xung đột, bạo lực hoặc các vấn đề khác.

Mong muốn hòa bình là điều cần thiết cho nhân loại

Đức Giáo Hoàng Lêô XIV bắt đầu Thông điệp của mình bằng cách nhấn mạnh rằng thế giới đang “phải đối mặt với những kịch bản đáng sợ và khả năng tàn phá toàn cầu”.

Ngài giải thích: “Viễn cảnh về một cuộc chạy đua vũ trang mới và sự phát triển của các loại vũ khí mới, bao gồm vũ khí hạt nhân, việc thiếu cân nhắc đến những tác hại của cuộc khủng hoảng khí hậu đang diễn ra và tác động của bất bình đẳng kinh tế sâu sắc khiến những thách thức của hiện tại và tương lai ngày càng trở nên khó khăn hơn”, đồng thời cho biết thêm rằng những vấn đề này đã buộc hàng triệu người phải rời bỏ quê hương của họ.

Ngài cũng chỉ ra rằng “xu hướng phổ biến” khi nhìn vào “lợi ích của các cộng đồng hạn chế” gây ra mối đe dọa đối với việc chia sẻ “trách nhiệm, hợp tác đa phương, theo đuổi lợi ích chung và đoàn kết toàn cầu”.

Đối với Đức Giáo Hoàng Lêô, “điều quan trọng là phải có một khát vọng ngày càng lớn mạnh trong lòng mọi người về một tương lai hòa bình và tôn trọng phẩm giá của tất cả mọi người”. Ngài nhấn mạnh rằng “một tương lai như vậy là thiết yếu cho kế hoạch của Thiên Chúa dành cho nhân loại và toàn thể tạo vật”, trích dẫn những đoạn trong sách Zechariah trong Kinh Thánh, nhấn mạnh rằng, với tư cách là Kitô hữu, “chúng ta tin tưởng và hy vọng vào sự thành tựu trọn vẹn của kế hoạch đó, vì Chúa luôn trung tín với những lời hứa của Ngài”.

Người di cư và người tị nạn, những nhân chứng của hy vọng qua câu chuyện của họ

Đức Giáo Hoàng giải thích rằng người di cư và người tị nạn do đó có một vai trò quan trọng trong việc thể hiện niềm hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Đối với Giáo Hội Công Giáo, “nhân đức hy vọng đáp lại khát vọng hạnh phúc mà Thiên Chúa đã đặt để trong trái tim mỗi người nam nữ”; và sự tìm kiếm này “chắc chắn là một trong những động lực chính” của người di cư, người tị nạn và người di tản, biến họ thành “những sứ giả” và “những chứng nhân đặc ân của hy vọng”.

“Thật vậy, họ thể hiện điều này hàng ngày thông qua khả năng phục hồi và niềm tin vào Chúa, khi họ đối mặt với nghịch cảnh trong khi tìm kiếm một tương lai mà họ thoáng thấy rằng sự phát triển toàn diện của con người và hạnh phúc là điều có thể”, ngài nói, khi so sánh với kinh nghiệm của người dân Israel được mô tả trong Kinh thánh.

“ Trong một thế giới tăm tối bởi chiến tranh và bất công, ngay cả khi mọi thứ dường như đã mất, lòng dũng cảm và sự kiên trì của họ là minh chứng anh hùng cho một đức tin nhìn xa hơn những gì mắt chúng ta có thể thấy và cho họ sức mạnh để thách thức cái chết trên nhiều tuyến đường di cư đương đại”.

Tầm quan trọng của việc chào đón người di cư

Đồng thời, Đức Giáo Hoàng Lêô giải thích rằng các cộng đồng chào đón người di cư và người tị nạn cũng có thể là “một chứng nhân sống động cho hy vọng” khi họ thể hiện “lời hứa về một hiện tại và tương lai, nơi mà phẩm giá của tất cả mọi người là con cái của Thiên Chúa được công nhận”.

“Theo cách này, người di cư và người tị nạn được công nhận là anh chị em, là một phần của gia đình mà họ có thể thể hiện tài năng của mình và tham gia đầy đủ vào đời sống cộng đồng”, ngài nói.

Người di cư và người tị nạn Công Giáo có thể hồi sinh Giáo hội

Trên bình diện tâm linh, Đức Giáo Hoàng Lêô nhấn mạnh rằng người di cư và người tị nạn cũng nhắc nhở Giáo hội “về chiều kích hành hương của mình, luôn hành trình hướng về quê hương cuối cùng, được nâng đỡ bởi niềm hy vọng, một nhân đức đối thần”. Ngài khuyến khích Giáo hội và các thành viên hãy là “dân Thiên Chúa đang hành trình hướng về quê hương thiên quốc” và tránh xa “cám dỗ của sự ‘định cư’” và trở thành “của thế gian”.

Về vấn đề này, Đức Giáo Hoàng tin rằng những người di cư và tị nạn Công Giáo có sứ mệnh đặc biệt là trở thành “những nhà truyền giáo hy vọng tại các quốc gia chào đón họ, mở ra những con đường đức tin mới ở những nơi sứ điệp của Chúa Giêsu Kitô chưa đến hoặc khởi xướng đối thoại liên tôn dựa trên cuộc sống hàng ngày và tìm kiếm các giá trị chung”.

“Đây là một missio migrantium đích thực, một sứ mệnh do người di cư thực hiện, trong đó cần phải bảo đảm sự chuẩn bị đầy đủ và hỗ trợ liên tục thông qua sự hợp tác liên giáo hội hiệu quả”, ngài nói.

“Với lòng nhiệt thành và sức sống thiêng liêng của họ, họ có thể giúp hồi sinh các cộng đồng giáo hội đang trở nên cứng nhắc và trì trệ, nơi mà sự sa mạc hóa thiêng liêng đang diễn ra với tốc độ đáng báo động”, ngài nói. “Vì vậy, sự hiện diện của họ nên được nhìn nhận và trân trọng như một phước lành thiêng liêng đích thực, một cơ hội để mở lòng đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, Đấng ban năng lượng và hy vọng mới cho Giáo hội của Người”.


Source:Vatican News
 
Tổng giám mục York của Anh Giáo đưa ra tuyên bố về Gaza trong tình hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo
Đặng Tự Do
19:07 31/07/2025


Tổng giám mục York Stephen Cottrell đã đưa ra tuyên bố sau đây về tình hình ở Gaza vào ngày 27 tháng 7.

Mỗi ngày trôi qua ở Gaza, bạo lực, nạn đói và sự phi nhân tính mà chính phủ Israel gây ra cho dân thường ngày càng trở nên đồi trụy và vô lương tâm. Nhân danh Chúa, tôi lên án hành động tàn bạo này, xâm phạm mạng sống và nhân phẩm con người. Đây là một vết nhơ trong lương tâm cộng đồng quốc tế, và là một sự vi phạm trắng trợn luật nhân đạo quốc tế.

Tuyên bố tuần này của Anh và 27 quốc gia khác lên án việc từ chối viện trợ và hành vi giết hại dân thường vô nhân đạo tại các trạm cứu trợ là một dấu hiệu quan trọng - dù đã quá trễ từ lâu - cho thấy quyết tâm ngày càng tăng của cộng đồng quốc tế nhằm chấm dứt cuộc chiến này. Tuy nhiên, mặc dù nhóm này đã tuyên bố sẵn sàng hành động tiếp, nhưng không còn thời gian để chờ đợi. Cần phải hành động ngay bây giờ để chấm dứt cuộc tấn công đang diễn ra vào Gaza, chấm dứt việc xây dựng thị trấn và bạo lực của người định cư Do Thái ở Bờ Tây, đồng thời bảo đảm đàm phán cho một nền hòa bình lâu dài và công bằng.

Lời cầu nguyện của tôi vẫn hướng về cộng đồng Kitô hữu kiên cường và đau khổ tại Lãnh thổ Palestine bị tạm chiếm, đặc biệt là ở Gaza, sau vụ tấn công đẫm máu gần đây vào Nhà thờ Công Giáo Thánh Gia. Tôi bày tỏ tình đoàn kết mục vụ với các Thượng phụ Latinh và Hy Lạp tại Giêrusalem, và cảm tạ chuyến viếng thăm gần đây của các ngài đến Gaza. Không có lý do gì để biện minh cho việc ném bom các địa điểm thờ phượng, nơi những người tuyệt vọng đang trú ẩn, hay các bệnh viện, nơi những người bệnh và người bị thương đang được chăm sóc. Tôi xin lặp lại lời của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV và nói rõ rằng hành động man rợ này phải chấm dứt.

Cùng với các anh chị em giám mục trong Giáo hội Anh, tôi đã nhiều lần lên án các cuộc tấn công kinh hoàng của Hamas vào ngày 7 tháng 10, và tôi tiếp tục kêu gọi trả tự do cho những người vẫn đang bị giam giữ một cách tàn bạo. Chúng tôi lên án mọi cuộc tấn công nhắm vào người vô tội. Nhưng như chúng tôi đã nói vào tháng 5 năm nay, cuộc chiến này giờ đây là một cuộc xâm lược - đó là một tội lỗi nghiêm trọng và nó phải chấm dứt.

Tuần trước, Đức Tổng Giám Mục Anh giáo tại Giêrusalem, Đức Cha Hosam Naoum, đã có bài phát biểu hùng hồn tại Thượng Hội đồng Giáo hội Anh giáo ở York. Tôi ủng hộ Đức Tổng Giám Mục Hosam trong việc kêu gọi một lệnh ngừng bắn ngay lập tức và vĩnh viễn, trả tự do cho tất cả các con tin và tù nhân, và tái thiết Gaza. Tôi ủng hộ ngài trong việc bác bỏ bất kỳ chính sách nào có thể dẫn đến việc thanh trừng sắc tộc người Palestine khỏi Gaza. Nhân danh Chúa Giêsu Kitô, tôi khuyến khích các giáo phận và giáo xứ tiếp tục cầu nguyện cho các chị em Anh giáo Palestine và tất cả các cộng đồng Kitô giáo khác – và cho an ninh, tự do và phẩm giá của người Palestine, người Israel và tất cả các dân tộc trong khu vực.

Stephen Cottrell, tổng giám mục York


Source:Episcopal new sservice
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Khuôn mặt chuẩn bị cho ngày mai
Linh Mục Đaminh Nguyễn Ngọc Long
13:56 31/07/2025

Chuẩn bị cho ngày mai chúng ta thường nghe ông bà cha mẹ khuyên lơn, nhắc bảo con cháu, nhất là trong việc học hành, chọn nghề nghiệp làm ăn sinh sống. Như lời nhắc bảo” Con phải cố gắng học hành không phải cho cha mẹ, hay cho ai. Nhưng cho tương lai chính đời con!”

Kiến thức, sự hiểu biết cần thiết hữu ích cho đời sống. Mỗi người có thể dùng đó xây dựng cho bản thân mình và giúp đỡ chia sẻ với người khác. Như ngạn ngữ tiếng Latinh có câu:” Fons vitae eruditio possidentis - Hiểu biết là nguồn sự sống cho người nào có nó.

Con người từ bé tới lớn hầu như ai cũng thích thu gom góp hay mua tậu những điều, những thứ mình yêu thích, mình đã sống trải qua. Những thứ đó giúp phát triển trí óc tìm tòi về khía cạnh phong tục văn hóa, khía cạnh lịch sử, và có thể sau này trở thành kỷ vật vốn liếng, cùng còn dùng làm của hồi môn, qùa tặng nữa!

Đời sống con người theo thời gian năm, tháng giầu thêm. Giầu về kiến thức hiểu biết, giầu về kinh nghiệm đời sống, giầu về nét đẹp thẩm mỹ, và cũng giầu về cả những sự không tốt, không lành mạnh nữa!

Những điều đồ vật chúng ta thu góp tích nhặt được trong đời sống cho riêng mình, không mấy ai muốn kể ra nói đến, nhất là về tiền bạc của cải vật chất!

Xưa nay trong dòng lịch sử thời gian đời sống, không chỉ riêng cha mẹ mà cả xã hội đất nước hằng khuyến khích mọi người cần phải tiết kiệm để dành tiền bạc cho cuộc sống lúc gặp bắt trắc, nhất là lúc tuổi xế chiều về nghỉ hưu mai sau. Dân gian xưa nay có ngạn ngữ “Tích cốc phòng cơ. Tích y phòng hàn- Thu góp tích trữ lúa gạo phòng khi mất mùa thiếu ăn đói kém. Thu góp tích trữ quần áo phòng cho mùa gía rét!” trong ý nghĩa đó.

Phúc âm Chúa Giêsu Kitô có lời khuyên, xem ra khác lạ: “ Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?' Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy". ( Lc 12, 13-21).

Phải, con người xưa nay từ tạo thiên lập địa, có ngày mở mắt chào đời đi vào xã hội đời sống trên trần gian, và rồi cũng có ngày sau cùng đời sống ra đi khỏi con đường đời sống trần gian. Đó là luật thiên nhiên cho nhân loại không có luật trừ cho ai là con người.

Nhưng có phải vì lời Chúa cảnh cáo trong phúc âm như trên mà sống hoặc buông thả để mặc không động tĩnh làm gì, hay theo cung cách sống vội vàng hưởng thụ thỏa thích như ý thích, nhiều bao nhiêu như có thể! Vì đời sống ngắn ngủi?

Đời sống con người được Đấng Tạo Hóa tạo dựng ban cho không chỉ có thân thân xác, hơi thở sự sống, mà còn có phần trí khôn tinh thần để suy nghĩ biết tiên liệu có tầm nhìn xa trông rộng nữa.

Hầu như ai là người trưởng thành đã bước chân vào trường đời làm ăn sinh sống cũng đều biết, nếu không nghĩ đến ngày mai mà dành dụm tiết kiệm chút tiền bạc cho mai sau, không chỉ cuộc sống về hưu sẽ có khó khăn nghèo nàn túng thiếu thốn, nhưng ngay cả khi phải sửa sang xe cộ, nhà cửa, hay mua tậu đồ vật nhỏ cần thiết cho đời sống lúc còn trẻ tuổi cũng đã gặp khó khăn chao đảo rồi.

Lời khuyên trong phúc âm theo nghĩa chiều hướng tích cực: Đời sống không được trở nên gánh nặng cho người khác!

Và như thế lời khuyên bảo của cha mẹ: ” Con phải cố gắng học hành không phải cho cha mẹ, hay cho ai. Nhưng cho tương lai chính đời con!” là khuôn thước cho đời sống không sống ích kỷ chỉ riêng cho mình. Nhưng còn ẩn chứa có lòng quảng đại, trái tim rộng mở cả cho người khác nữa.

Kiến thức sự hiểu biết của riêng mỗi người học hành thu góp được lẽ dĩ nhiên cho riêng mình, nhưng cũng tựa như cánh cửa của tâm trí mở ra nhận biết phân biệt thế nào là tốt, là cần thiết hữu ích, là xấu không tốt, nhất là khi công việc đến giai đoạn kết thúc. Như trong dân gian có ngạn ngữ mà một người có thể vui mừng an an tâm nói lên được: “Hôm nay là một ngày tốt đẹp trong đời sống đã làm đã trải qua!”

Trước mặt Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, con người cần có đời sống giầu thêm về tấm lòng yêu thương bác ái. Trước mặt Thiên Chúa con người không là một đơn vị một mình lẽ loi chỉ là tôi, nhưng là chúng

ta. Chúng ta sống tình liên đời với những người khác, với thiên nhiên công trình sáng tạo của Thiên Chúa.

Chúng ta và kiến thức sự hiểu biết, khả năng hành động, trí khôn của chúng ta góp phần xây dựng sự bình an niềm vui chúc phúc lành cho người khác cùng cho chính bản thân mình.

Hôm 29.07.2025 trên quảng trường đền thờ Thánh Phero ở Vatican, Đức Thánh Cha Leo 14. xuất hiện đến chào đón tâm tình cùng các Bạn Trẻ thế giới tụ họp về mừng Năm Thánh niềm Hy vọng 2025: “ Chúa Giêsu nói anh em là muối đất, là ánh sáng cho trần gian, và lòng nhiệt thành của những người trẻ các con. Thế giới cần những sứ điệp niềm hy vọng, và chính các con là những sứ điệp đó.”

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
 
Văn Hóa
Khủng Hoảng Hôn Nhân Như Một Khủng Hoảng Ý Nghĩa: Về Sự Cằn Cỗi Của Ý Chí Hiện Đại, tiếp
Vũ Văn An
23:05 31/07/2025
4. Ý chí như khả năng tự hiến

Thánh Tôma Aquinô định nghĩa ý chí là “sự thèm khát trí thức.” (45) Khái niệm ý chí như một sự thèm khát có ý nghĩa sâu sắc đối với cuộc thảo luận của chúng ta: sự thèm khát là một sự hấp dẫn, một chuyển động hướng tới hoặc tìm kiếm (“petere ad”), nảy sinh trong mối tương quan với một số điều tốt đẹp tự nó trình diện. Được định nghĩa như vậy, ý chí có một chiều kích tiếp thu triệt để; nó được khởi động bởi điều tốt đã thu hút nó, điều mà Thánh Tôma, theo chân Aristốt, gọi là “động lực bất động” (unmoved mover) đối với ý chí. Vì chuyển động của ý chí bắt đầu một cách dứt khoát từ bên ngoài ý chí, nên chuyển động cũng kết thúc ở bên ngoài nó: trái ngược với hành vi trí thức, vốn chấm dứt trong chính trí tuệ, hành vi ý chí chấm dứt ở điều thiện hiện hữu trong những sự vật bên ngoài tác nhân. (46) Điều tốt, ít nhất ở một khía cạnh nào đó, vươn xa hơn sự thật. (47) Điều này không có nghĩa là ý chí chỉ đơn giản là thụ động; đúng hơn, ý chí vận động chính nó và các sức mạnh khác của linh hồn hướng về điều tốt được đề cập. (48) Nhưng sự tự di chuyển của nó xảy ra bên trong hữu thể của nó được thúc đẩy bởi điều tốt – và cuối cùng, bởi chính Thiên Chúa, Đấng vốn là sự tốt lành. (49) Nên lưu ý rằng điều diễn giải này đặt nguồn gốc của ý chí trong những gì nằm ngoài nó, điều này mang lại cho ý chí một đặc tính liên quan một cách căn để với người khác và do đó có tính cách tự siêu việt. Chúng ta đã vượt quá khái niệm coi một “trung tâm điều khiển” tự khép kín như nguồn gốc của hoạt động.

Giờ đây, chiều hướng tự siêu việt này của ý chí sẽ trở nên sâu sắc hơn khi chúng ta thấy rằng điều phân biệt nó, như một sự thèm khát, với những ham muốn thuộc cảm giới mà chúng ta chia sẻ với tất cả các loài động vật khác, đó là nó đặc biệt là sự thèm khát trí thức: không chỉ đơn giản là điều tốt đẹp được tri nhận sẽ lay động ý chí con người, mà còn là điều tốt đẹp mà trí tuệ chúng ta đã nắm bắt được. Điều này có ba hàm ý liên quan trực tiếp đến câu hỏi hiện tại của chúng ta. Thứ nhất, bởi vì trí tuệ là thứ nhờ đó chúng ta nắm bắt được yếu tính của sự vật, chúng ta nhìn sự vật như chúng là trong chính chúng chứ không chỉ đơn thuần là chúng có vẻ như thế nào đối với chúng ta, (50) nghĩa là, chúng ta nắm bắt được hữu thể của chúng, tức là sự thật của chúng, ngoài vẻ bề ngoài đơn thuần của chúng; nó có nghĩa là điều tốt thúc đẩy ý chí thông qua sự thèm khát trí thức không nhất thiết và hoàn toàn chỉ là điều tốt liên quan đến nhu cầu vật chất trước mắt. Thay vào đó, trong căn bản, chúng ta cảm thấy xúc động nhất bởi những gì tốt trong chính nó. Thứ hai, Thánh Tôma định nghĩa điều tốt đẹp là đối tượng thích hợp của sự thèm khát trí thức như “điều tốt phổ quát,” (51), một điều tốt, như ngài giải thích, (52) được hiểu trong “common ratio” [lý lẽ thông thường] của nó— đơn giản là sự tốt lành—như khác biệt với các đối tượng của sự thèm khát có tính tư dục và không thể kiềm chế được, đối với các điều tốt đặc thù, nghĩa là sự tốt đẹp đã được quy định một cách đặc thù. Chính đối tượng này - chính sự tốt đẹp- giải thích tính siêu việt của ý chí trong tương quan với những thèm khát có chung cách nào đó với động vật. Nhưng cũng chính chiều kích siêu việt này mới cho phép con người hành động vì lợi ích chung, lợi ích thuộc về toàn thể mà con người, theo một nghĩa nào đó, là một thành phần. (53) Thật vậy, theo Thánh Tôma, chúng ta thực sự được thúc đẩy bởi chính sự tốt đẹp trước khi chúng ta bị thúc đẩy bởi những điều tốt đẹp đặc thù (“trước khi,” ở đây, theo nghĩa siêu hình hơn là theo nghĩa thời gian), có nghĩa là chúng ta bị thúc đẩy bởi lợi ích chung trước khi bị thúc đẩy bởi bất cứ điều tốt “riêng tư” nào, chỉ liên quan đến bản thân chúng ta với tư cách là những cá nhân. Như De Koninck đã nói, “Lợi ích chung tự nó và đối với chúng ta đáng yêu hơn lợi ích riêng tư.” (54) Cuối cùng, nếu ý chí, trong yếu tính, là một thèm khát trí thức, nghĩa là, trong tâm điểm của nó, nó tự vận động khi được thúc đẩy bởi điều tốt đích thực, phổ quát, và nếu sự thống nhất giữa trí tuệ và ý chí tượng trưng cho trái tim của con người, (55) thì điều đó cho thấy con người là người tự chuyển động tự do nhất, trọn vẹn nhất – một cách nghịch lý - khi họ được sắp xếp cho một điều tốt vượt quá chính họ. Chúng ta trực giác điều này trong sự kiện; nhân cách gây ấn tượng nhất nổi bật nơi người không đơn giản dật dờ trôi theo những thôi thúc nhất thời, nhưng sống có mục đích chủ ý - và trên hết với mục đích cao thượng. (56)

Bây giờ, lưu ý nghịch lý này, tức là, người ta là chính mình một cách sâu sắc nhất khi họ được thúc đẩy bởi một điều tốt vượt quá bản thân họ, chúng ta hãy xem xét một số nhận xét của Thánh Tôma về tình yêu, amor. Thánh Tôma định nghĩa tình yêu theo nghĩa đơn giản nhất là “năng khiếu hoặc tỷ lệ của sự thèm khát điều tốt.” (57) Nói cách khác, tình yêu biểu thị sự sắp xếp cho điều tốt, một hữu thể dành cho điều tốt, đồng thời ngụ ý, là “sự hài lòng trong điều tốt,” (58) một hữu thể ở trong nó, và thậm chí, một cách căn bản hơn một hữu thể từ nó, trong chừng mực chính cái tốt tạo nên năng khiếu này. (59) Tình yêu xét cho cùng là một niềm đam mê, một hữu thể bị chuyển động, một cách căn bản hơn là sự chuyển động (cố ý) của chính nó. (60) Ngài tiếp tục xác định rằng tình yêu luôn có một chuyển động kép: mọi hành vi yêu thương luôn là tình yêu đối với một điều gì đó (amor concupiscentiae) và dành cho ai đó (amor amicitiae), và quả thực, khía cạnh thứ hai này là tình yêu trong tính tuyệt đối của nó trái ngược với ý nghĩa tương đối của nó. (61) Về phương diện này, tình yêu luôn có điều mà ngày nay chúng ta gọi là nền tảng bản vị, một sự sắp xếp, không phải cho điều tốt trong chính nó, mà cuối cùng là một điều tốt cho một người nào đó. Điều này bổ sung thêm một sự thay đổi cho những gì chúng ta đã thấy ở trên về bản chất của ý chí. Đặc biệt đối với tình yêu, chúng ta có thể nói rằng “lợi ích phổ quát” mà ý chí hướng tới không được quan niệm đầy đủ như một đối tượng của sự thèm khát (tình yêu một điều gì đó: ad bonum quod quis vult alteri [điều tốt mà người này muốn cho người khác]), nhưng cuối cùng cũng phải được hiểu như bao gồm một cách yếu tính việc đề cập đến một chủ đề (tình yêu dành cho ai đó: ad illud cui aliquis vult bonum [người ta nuốn điều tốt lành cho người đó]). Chúng tôi sẽ trở lại điểm này dưới đây.

Điều quan trọng đối với chúng ta bây giờ là xem xét điều được Thánh Tôma trình bầy trong ST I–II, q. 28 như các hiệu quả của tình yêu. Những điều liên quan trực tiếp đến mục đích của chúng ta là như sau: (62) sự kết hợp, mà Thánh Tôma nói có trước tình yêu như nguyên nhân của nó, là tình yêu, và diễn ra một cách thực sự như là kết quả của tình yêu (điều 1); “ở trong nhau”, theo Thánh Tôma, có nghĩa là trong tình yêu, người được yêu, theo nghĩa chân thực của nó, ở trong người yêu, và người yêu ở trong người được yêu, đó là điều làm cho tình yêu trở nên “thân mật” (mục 2); và “sự xuất thần”, qua đó người yêu được cho là vượt lên trên chính mình, tức là họ “ra khỏi chính mình” hoặc “được đặt ra ngoài chính mình” (điều 3), trong mối tương quan của họ với người được yêu. Trọng điểm ở đây là thấy rằng tình yêu, như Thánh Tôma trình bày, không phải chỉ là sự quy chiếu từ một chủ thể đến một đối tượng mãi ở khoảng cách xa, mà đúng hơn là một chuyển động hữu thể học thực sự, một chuyển động của chính bản thân người yêu, đến nỗi có sự thống nhất chân thực của hữu thể. Người yêu hiện hữu theo nghĩa đích thực nào đó bên ngoài bản thân họ và trong người yêu (và ngược lại) - người yêu bị thúc đẩy “thâm nhập vào chính tâm hồn [của người được yêu],” họ tìm cách “sở hữu người được yêu một cách hoàn hảo, bằng cách thâm nhập vào trái tim họ”. ”—hơn là sự tiếp xúc bề mặt, như thể, giữa hai thực thể tách biệt về yếu tính: “non est contentus superficiali apprehensione amati [họ không bằng lòng với sự hiểu biết hời hợt về người mình yêu].” (63) Nhưng, về những đường lối mà chúng tôi đã đề cập ở trên liên quan đến dây hôn phố, trong khi người ta có xu hướng mang lại cho những khẳng định này một loại ý nghĩa huyền nhiệm theo nghĩa tốt nhất, một ý nghĩa vượt quá kinh nghiệm thông thường, và do đó trên thực tế vượt quá thực tại; nói cách khác, trong khi người ta có xu hướng coi những lời khẳng định này như một phép ẩn dụ thi ca, thì Thánh Tôma mang đến cho những tác động của tình yêu này một ý nghĩa hữu thể học - và thực sự là một ý nghĩa hoàn toàn phổ quát. Vào cuối cuộc thảo luận chuyên đề về tình yêu, Thánh Tôma đặt câu hỏi liệu mọi việc người yêu làm có được thực hiện vì tình yêu hay không? (ST I–II, q. 28, a. 6), và, dựa trên mô tả mà ngài vừa đưa ra về tác dụng của tình yêu, ngài đã đưa ra một câu trả lời đáng kinh ngạc. Đề cập đến nhà triết học tình yêu vĩ đại – có lẽ là vĩ đại nhất – Dionysius Areopagite, Thánh Tôma vượt xa cả tính phổ quát của các thuật ngữ mà ngài đã dùng để đặt câu hỏi: “Mọi tác nhân đều hành động vì một mục đích, như đã nêu ở trên. Mà mục đích là điều tốt đẹp được mỗi người mong muốn và yêu mến. Vì vậy, rõ ràng là mọi tác nhân, bất kể là gì, thực hiện mọi hành động vì tình yêu thuộc loại nào đó.” (64) Không chỉ mọi hành động của một người yêu đều là một hành động của tình yêu, mà mọi sự hành động đều là một người yêu.

Trong chừng mực mọi sự xảy ra đều là một hành động, và, ở một bình diện nào đó, mọi hành động đều ngụ ý một tác nhân đang tìm kiếm điều tốt đẹp nào đó, thì chủ trương này có nghĩa là mọi điều xảy ra trong vũ trụ, mọi chuyển động của mọi tạo vật, kể cả con người, nhưng không giới hạn ở con người, đều là một biểu thức của tình yêu. (65) Nhưng, như chúng ta vừa nhận xét, tình yêu đòi hỏi một sự thân mật hữu thể học, một sự trao đổi hữu thể, một mối tương quan trong đó người yêu và người được yêu vượt quá chính họ để tan hòa vào nhau và gắn kết với nhau theo một ý nghĩa hữu thể học nào đó. Nếu mọi hành động của mọi tác nhân đều là biểu thức của tình yêu, điều đó có nghĩa là tất cả sự tương tác giữa những sự vật mà chúng ta chứng kiến trên thế giới không chỉ đơn thuần là sự va chạm ở bề mặt—các nguyên tử trong khoảng không—mà là sự giao tiếp mật thiết của hữu thể. Tất nhiên, tình yêu theo nghĩa đúng đắn nhất là tình bạn, tình yêu chỉ có giữa con người với nhau. Nhưng Thánh Tôma khẳng định, với toàn bộ truyền thống Kitô giáo cổ điển, rằng tình yêu hiện hữu một cách tương tự ở mọi bình diện của hữu thể: ngài phân biệt giữa tình yêu tự nhiên, vốn là xu hướng hướng tới điều tốt và lên đặc điểm cho mọi sự không trừ điều nào, ngay cả các thụ tạo vô tri vô giác, vì những thụ tạo này cũng có liên hệ với điều tốt lành; (66) tình yêu cảm giác hoặc thú tính, vốn lên đặc điểm cho những sự vật có khả năng tri nhận và do đó, theo đuổi điều tốt; và tình yêu hợp lý trí hay trí thức, thuộc về những hữu thể có khả năng mong muốn điều tốt trong sự thật của nó. (67) Những tình yêu khác nhau này tương tự nhau vì chúng đều nói lên hiện hữu từ, trong và vì điều tốt, nhưng ở các mức độ thân mật khác nhau trong việc tham gia vào sự sắp xếp này, khả năng khác nhau trong việc nội tâm hóa nó.

Mục đích của việc nhìn thấy tính phổ quát của tình yêu, biểu thức tương tự của nó ở mọi bình diện hữu thể, không chỉ đơn thuần là để hiểu điều gì đó về đất đá và cây cối, mà còn để hiểu con người một cách cụ thể: những hành động yêu thương có chủ ý của tôi là một sự tham gia hữu lý vào một tình yêu liên quan đến toàn bộ con người tôi, và không chỉ bao gồm những ham muốn thuộc cảm giác mà còn cả cơ thể tôi. Toàn bộ con người tôi ở trong tình yêu của tôi. Hơn nữa, giống như mọi hành động trong vũ trụ đều là một biểu thức tương tự của tình yêu, thì mỗi hành động đơn lẻ mà tôi thực hiện, và mỗi hành động ý chí thì càng như vậy hơn, đều là một biểu thức tương tự của tình yêu. Có một kiểu tự thông truyền, một sự tự siêu việt thân thiết, xảy ra trong mọi lựa chọn mà tôi đưa ra, không có ngoại lệ. Trong chừng mực hành động có tính dứt khoát một cách căn bản,– lịch sử không bao giờ có thể bị đảo ngược – chúng ta có thể nói rằng sự thông truyền bản thân này chia sẻ, dưới hình thức một quà tặng, điều mà Aristốt từng nói, có đặc điểm chuyên biệt như một điều được cho đi mà không mong đợi được đáp trả. (68) Tôi thực hiện việc hiến mình theo một nghĩa tương tự nào đó trong mọi việc tôi làm.

Ở đây chúng ta bắt đầu thấy một số chiều sâu siêu hình học của ngôn ngữ tự hiến, vốn rất nổi bật, chẳng hạn, trong tư tưởng của Đức Gioan Phaolô II, và đã trở thành tiêu chuẩn trong giáo huấn của Giáo hội, đặc biệt là về hôn nhân và gia đình. (69) Trong một tiểu luận được viết trước khi được bầu làm giáo hoàng, “Ngôi vị: Chủ thể và Cộng đồng”, Karol Wojtyła đã viết về khả năng tự quyết đặc biệt vốn đặc trưng cho con người như những bản vị. (70) Một trong những nguyên tắc chủ đạo trong suy tư của ngài là tiên đề kinh viện, operari sequitur esse, hành động đi theo hiện hữu, mà Wojtyła giải thích theo nghĩa rất mạnh là ngụ ý một mối liên hệ không thể tách rời giữa luân lý và hữu thể học, hành động và hiện hữu, đến mức người ta không thể hành động nếu hành động này không có những hàm ý hữu thể học đối với người hành động. (71) Trên cơ sở nguyên tắc này, Wojtyła giải thích rằng hành động của con người, bắt nguồn từ tính chủ quan, không chỉ mang tính bắc cầu [transitive], một hành động tác động lên một đối tượng nào đó, mà luôn luôn đồng thời “không có tính bắc cầu”: hành động của con người luôn là một dạng tự quyết; chúng ta không chỉ tạo ra điều gì đó trong hành động của mình, mà chúng ta còn trở thành một điều gì đó. (72) Ý nghĩa của lời khẳng định này nổi bật một cách đặc biệt so với điều chúng ta vừa thấy ở Thánh Tôma: Tôi thông truyền điều gì đó của chính con người tôi trong điều tôi làm; Tôi không thể tránh khỏi bị cuốn vào hành động của mình. (73) Hành động liên quan đến tôi một cách mật thiết; tôi kết nối với điều tốt đẹp, tôi sống trong nó một cách sâu sắc, khi tôi lựa chọn nó; theo một nghĩa tương tự nào đó – bởi vì hành động này là một biểu thức của tình yêu – tôi trở thành một phần của nó và nó trở thành một phần của tôi.

Theo Wojtyła, tiên đề operari sequitur esse ngụ hàm điều mà chúng ta có thể gọi là một loại tính phản tỉnh [reflexivity] giữa “chủ thể” và “đối tượng”: loại hữu thể mà chủ thể là không thể tách rời khỏi bản chất của đối tượng của nó và là khía cạnh mà qua đó chủ thể muốn đối tượng. Như thế, chẳng hạn, coi một vật đẹp đẽ chỉ như một đối tượng của sự thèm khát khả giác là phủ nhận bất cứ điều gì trong tính chủ quan của mình có thể vượt quá sự thèm khát khả giác. Hành vi này không những ảnh hưởng đến đối tượng mà còn ảnh hưởng đến chủ thể, do đó chủ thể tự biến mình thành một hữu thể chỉ có ham muốn thể xác. Bây giờ, như chúng ta đã thấy ở trên, con người có khả năng độc đáo trong việc theo đuổi điều tốt đẹp, nghĩa là khẳng định một điều gì đó tự nó tốt chứ không chỉ đơn thuần là tốt so với nhu cầu trước mắt của họ. Họ có thể làm điều gì đó không vì lý do gì khác hơn là vì nó tốt. Nhưng hành động này cũng mang tính phản tỉnh [reflexive], có nghĩa là khi vượt quá chính mình thông qua việc theo đuổi một điều tốt đẹp nội tại, con người đồng thời khẳng định mình là một điều tốt lành nội tại. (74) Wojtyła giải thích rằng chúng ta chỉ tự do trong loại siêu việt đặc trưng của con người, và - sự siêu việt này chỉ khả hữu trong mối tương quan với một điều tốt thực sự, xét trong chính nó. Wojtyła nói, vì lý do này, có một mối liên hệ yếu tính giữa tự do và lương tâm: người ta chỉ sở hữu bản thân mình một cách đầy đủ và thực sự xác định chính mình, bằng một hành động đáp ứng một điều tốt thực sự. (75) Ở đây, một lần nữa, chúng ta thấy, quan điểm đã nêu ở trên, tức là con người hoàn thiện chính mình, họ tự vận động một cách toàn diện và như một toàn thể, chính bằng cách vượt quá chính mình trong mối tương quan với lợi ích chung vốn vượt quá cá tính đơn thuần của mình. Theo nghĩa này, quyền tự chủ và tính tương quan với người khác, nếu được hiểu một cách đúng đắn, không những có thể được làm cho hài hòa mà còn phụ thuộc lẫn nhau, và, ở một khía cạnh nào đó, là các khía cạnh của cùng một thực tại. (76)

Mà, điều Wojtyła thêm vào những gì chúng ta thấy ở Thánh Tôma là một suy tư minh nhiên về ý nghĩa của bản vị. (77) Tôi làm cho sự tốt lành nội tại của tôi hiển hiện khi tôi đối diện với người khác như người tốt một cách nội tại, một mục đích trong chính họ, nhưng tôi chỉ trở thành một bản vị trong mối tương quan với người khác: khi tôi đối diện với người khác, không chỉ như một điều tốt đẹp nội tại, mà như một Thou [Ngài, anh/em]. (78) Wojtyła đề cập một cách tán thành chủ trương cho rằng “theo nghĩa nào đó, cái Tôi được tạo nên bởi cái Ngài [anh/em].” (79) Điều này xảy ra như thế nào? Ở đây, tính phản tỉnh mà chúng ta đã đề cập ở trên nhận được một ý nghĩa mà chúng ta phải thừa nhận như có tính mô hình, ít nhất là ở dạng mà tính phản tỉnh này mang lấy, trong tình bạn và tình yêu. (80) Người khác trong mối tương quan Tôi-Anh/em không chỉ là một đối tượng mà còn là một chủ thể. Chúng ta có thể nói rằng điều tốt mà tôi tham gia vào bằng hành động của ý chí trong trường hợp này không chỉ là một điều gì đó, mà là một ai đó. Ban đầu, “ai đó” có thể chỉ hiện diện trong hành động của tôi như người nhận nó, nhưng trong mối tương quan Tôi-Anh/em đúng đắn hơn thì người kia sẽ đáp lại hành động của tôi. Trong trường hợp này, mối tương quan giữa điều tốt và ý chí mà chúng ta mô tả ở trên trở nên phức tạp hơn. Điều tốt ở đây không đơn giản là “người chuyển động bất động” ý chí của tôi mà bây giờ là người chủ động chuyển động tôi. Có thể có một loại tự siêu việt sâu sắc hơn trong trường hợp này, một loại được thực hiện nhờ sự cùng hành động của người khác, vì tôi không chỉ tham gia vào điều tốt đẹp thu hút tôi mà còn được người đó đón nhận. Do đó, hành động của tôi đối với người khác lại mang hình thức đón nhận họ như một bản vị trong sự tự hiến của họ. Hành động của con người ở đây đạt đến một mức hoàn tất nào đó như là sự tương tác, như một mối tương quan hỗ tương giữa bản vị với nhau, điều này nhất thiết đòi hỏi một loại tôn trọng và trách nhiệm đặc biệt. (81) Wojtyła nói:

“Mối liên kết giữa Tôi và Anh/em trong các mối tương quan hỗ tương này càng sâu sắc, toàn diện, mãnh liệt và nó càng mang tính chất tin tưởng, hy sinh bản thân và (trong chừng mực có thể trong mối tương quan giữa người này với người khác) một loại thuộc về đặc biệt, thì nhu cầu chấp nhận và khẳng định lẫn nhau về cái Tôi của Anh/em trong tính chủ quan bản vị của nó, trong toàn bộ cấu trúc của sự tự chiếm hữu và hoàn toàn hài hòa với tính siêu việt bản vị được thể hiện trong các hành vi của lương tâm.” (82)

Chúng ta có thể đào sâu ý nghĩa của lời khẳng định này từ góc độ những gì chúng ta đã rút ra từ Thánh Tôma. Chúng ta thấy rằng mọi hoạt động, dù thuộc loại nào, đều là một hành động của tình yêu, nhưng hình thức cơ bản của tình yêu, nền tảng của mọi biểu thức khác, là tình yêu của tình bạn: không chỉ là tình yêu vì điều tốt đẹp nào đó, mà còn là tình yêu dành cho ai đó. Nếu có điều gì đó tương tự như sự tự hiến trong mọi hành động, như chúng ta đã đề xuất ở trên, thì sự tương tự này có nguyên tắc nền tảng trong tình yêu bản vị, hoặc chúng ta có thể đưa ra cùng một quan điểm, ngược lại, bằng cách nói rằng tình yêu bản vị là sự hoàn hảo của điều mọi hữu thể đều phát biểu một cách sơ sài (inchoate). Dù sao, việc tự hiến cho một người là cơ sở cho mọi hiến dâng khác mà một người thực hiện. Như Thánh Tôma vốn nói, tình yêu là “quà tặng đầu tiên, qua đó mọi quà tặng miễn phí đều được trao ban,” (83) bởi vì nền tảng của bất cứ quà tặng nào là tình yêu dành cho người mà chúng ta trao tặng. Chiều kích đối cách [accusative] (ad illud bonum quod vult) nằm bên trong chiều kích tặng cách [dative] (ad illud cui bonum vult) trong đó từ “quà tặng” được báo hiệu rõ ràng (dative: do động từ dare [cho], datum, v.v.). Trong một cuộc thảo luận về ý nghĩa của đời sống tu trì, Thánh Tôma nói rằng những người đã tuyên khấn “có thể được so sánh với những người làm một số việc tốt đặc biệt nào đó cũng như cái vô hạn được so sánh với cái hữu hạn. Bất cứ ai hiến thân cho người khác để làm tất cả những gì người khác có thể ra lệnh, sẽ hiến thân nhiều hơn vô cùng so với một người hiến thân mình để làm một công việc đặc thù nào đó.” (84) Bằng loại suy, chúng ta có thể nói rằng một người không chỉ cho đi một điều đặc thù nào đó mà còn cả tình yêu của mình, cho một người khác, qua đó mang lại cho mỗi món quà của họ một chiều sâu vô hạn ngay trong tính đặc thù của chúng. Theo nghĩa này, hành vi hiến thân trong tình yêu là sự hoàn hảo của quyền tự quyết, mang lại cho tất cả những lựa chọn khác một chiều sâu thực chất nhất định.

5. Tình Yêu Như Một Mối Tương quan Vượt Quá Chính Nó

Nhưng ngay tại đây chúng ta gặp phải một vấn đề cần phải tìm hiểu sâu hơn. Không khó để hiểu việc trao tặng một thứ gì đó vì tình yêu có nghĩa là gì, nhưng việc trao tặng tình yêu như một quà tặng có thể có ý nghĩa gì? Nói cách khác, việc cho đi chính bản thân mình có thể có nghĩa là gì? Chúng ta thường nghĩ về tình yêu—không hẳn một cách không thích đáng, chắc chắn là như vậy - như một loại hành động bắt nguồn từ bản thân và hướng tới người khác mà chúng ta yêu thương. Nhưng nếu nói rằng chính tình yêu, hay thực ra, chính bản thân mình, được cho đi sẽ làm phức tạp lối suy nghĩ này: người kia không còn (đơn giản) là đối tượng của tình yêu của tôi, mà giờ đây, theo một nghĩa nào đó, cũng là chủ thể của nó. Người ta có thể muốn giải thích lời tuyên bố này theo nghĩa yếu ớt, và nói rằng việc hiến thân chỉ có nghĩa là cho đi một thiện chí vô điều kiện: Tôi không chỉ cho bạn một số điều tốt đẹp mà còn sẵn lòng trao cho bạn mọi điều tốt đẹp. Tuy nhiên, Thánh Tôma (theo Aristốt) phân biệt giữa tình yêu và lòng nhân từ [benevolence] hay thiện chí. Lòng nhân từ, tức là mong muốn người kia được điều tốt lành, là một phần thiết yếu của tình yêu thương nhưng chưa đủ, bao lâu lòng nhân từ không nhất thiết bao gồm sự hợp nhất; người ta có thể mong muốn người khác được tốt lành như một cá nhân trong tương quan với một người khác, một người vẫn là một cá nhân tách biệt ở mọi khía cạnh khác. Nhưng tình yêu ngụ hàm sự hợp nhất của cả hai: “Yêu thực sự là một hành động của ý chí hướng tới điều tốt, nhưng nó tạo thêm một sự kết hợp nhất định với người được yêu, sự kết hợp này không được biểu thị bằng thiện chí.” (85) Theo Thánh Tôma, phải có một sự kết hợp nào đó. Thuộc loại nào? Trong bài viết đặc thù này, Thánh Tôma nói về “sự hiệp nhất của tình âu yếm”. Nhưng chúng ta phải cẩn thận để không giải thích điều này từ bên trong bối cảnh của quan niệm nghèo nàn đương thời về ý chí, một bối cảnh có thể khiến chúng ta hiểu điều này theo nghĩa hời hợt là “cảm giác như” tôi và người khác được kết nối với nhau - nghĩa là, chúng tôi hưởng được cảm giác hợp nhất, xem ra chúng tôi là một, mặc dù, tất nhiên, trong thực tế chúng tôi chỉ là hai cá thể tách biệt. Thay vào đó, bao lâu sự hiệp nhất của tình âu yếm thực sự là một sự hiệp nhất, thì trải nghiệm có tính cảm giác về sự hiệp nhất phải được hiểu như một hàm số của thực tại của nó. Dù sao, tình âu yếm hàm ý một loại gắn bó đi trước những hành động có chủ ý của tôi và cung cấp bối cảnh trước để từ đó những hành động này xảy ra. (86) Thánh Tôma, trong một bối cảnh khác, nói rằng sự hiệp nhất hay “sợi dây âu yếm”, trong yếu tính, vốn là tình yêu, “được ví như sự kết hợp bản thể, trong chừng mực người yêu đứng trước đối tượng của tình yêu, cũng như với chính họ.” (87) Tình yêu còn hơn cả thiện chí do sự kết hợp mà nó hàm ngụ, và điều này xảy ra vì cả hai được nối với nhau theo nghĩa hữu thể học thực sự nào đó trong một dây liên kết.

Nhưng thực tế chúng ta đã vượt qua được ẩn dụ chưa? Há chúng ta đã không nhấn mạnh, theo những lời vừa trích dẫn, những chữ “được ví như...” và giải thích chữ “cũng như” trong cụm từ “cũng như với chính họ” một cách chuyên biệt theo nghĩa “như thể” đó sao? Dù sao, không ai có thể phủ nhận rằng hai người bạn, bất luận “thân thiết” đến đâu, vẫn chỉ là hai người bạn, tức là hai cá thể “có ý nghĩa rất lớn” với nhau nhưng có ý nghĩa rất lớn một cách chuyên biệt với nhau như một cá nhân. Chính sự phản bác này đã thôi thúc chúng ta tiến thêm một bước, được chứng minh là bước quyết định. Một cách đáng chú ý, chúng ta lưu ý rằng Wojtyła không nêu bật khía cạnh hiệp nhất trong mô tả của ngài về mối tương quan Tôi-Anh/em. (88) Ngược lại, chủ yếu vì vị trí trung tâm của tính độc đáo và cá tính của bản vị được nó ngụ hàm, mối tương quan làm nổi bật khía cạnh việc tự thành toàn và tự khẳng định của cá nhân vốn là một phần trong ý nghĩa của bản vị.

Ở dạng căn bản của nó, mối tương quan Tôi-Anh/em, không hề dẫn tôi ra khỏi tính chủ quan của mình, mà theo một nghĩa nào đó, đã đặt tôi vào mối tương quan đó một cách vững chắc hơn. Cấu trúc của mối tương quan, ở một mức độ nào đó, là sự xác nhận cấu trúc của chủ thể và tính ưu tiên của chủ thể đối với mối tương quan. (89)

Mặc dù nhận xét này đúng là có tính tích cực hơn là phê phán, nhưng chúng ta phải nhận thức đầy đủ điều mà nó nói một cách minh nhiên, đó là, mối tương quan liên bản vị, mặc dù có xu hướng bên trong hướng tới sự hiệp nhất thực sự, nhưng không có sự hiệp nhất như yếu tính xác định của nó. Đây là lý do tại sao nó có xu hướng mang hình thức một sự trùng hợp của các tư lợi cá nhân. Trong trường hợp này, tính siêu việt của Tôi trong mối tương quan với Anh/em mất đi chính bản thể của nó, mối tương quan thoái hóa chủ yếu thành việc sử dụng nhau hay hưởng khoái lạc với nhau. Như chúng ta đã thấy, nếu chính sự tốt lành đúng nghĩa tạo ra sự siêu việt đích thực, thì chúng ta có thể nói rằng điều không có trong trường hợp trùng hợp về tư lợi là điều tốt như nguyên tắc sắp xếp của mối tương quan. Wojtyła đưa ra sự phân biệt rõ ràng giữa mối tương quan “Tôi-Anh/em” và mối tương quan “chúng ta”. (90) Ngài giải thích, chỉ có mối tương quan sau mới mang tính xã hội đúng đắn bởi vì chính ở đây các hoạt động của các tính chủ quan cá nhân được tập hợp lại thành một thể thống nhất trong tương quan với ích chung. (91)

Để hiểu tại sao khía cạnh này lại đặc biệt cần thiết trong mối tương quan với khái niệm tình yêu hay quà tặng, điều hữu ích là xem xét lập luận nổi tiếng của Richard thành St. Victor về việc hiểu Thiên Chúa như Tam Vị gồm Ba Ngôi vị. (92) Theo Richard, việc tự hiến không thể hoàn hảo chỉ giữa hai người. Trong số những lý do ngài đưa ra để giải thích, chúng ta sẽ nêu bật một lý do duy nhất ở đây: trong “hình thức căn bản” của mối tương quan giữa các cá nhân, lợi ích tối cao của người A là B, và lợi ích tối cao của B là A. Bởi vì đây là những điều tốt khác nhau triệt để – trong tư cách là những ngôi vị khác nhau không thể rút gọn – thì không có sự hiệp nhất hoàn hảo ở đây. Bất luận gắn bó sâu sắc và quấn quít chặt chẽ đến đâu, đây vẫn là hai tình yêu trùng hợp chứ không phải một. Để có được một tình yêu, cần phải có một điều thiện vượt trên tính cá nhân của mỗi người. (Sẽ không đúng khi nói rằng tôi và một người khác hoàn toàn hợp nhất bởi vì cả hai chúng tôi đều yêu tôi trên hết mọi sự!) (93) Sự hiệp nhất giữa các ngôi vị—một “chúng ta”—đòi hỏi một ích chung mà cả hai (hoặc tất cả) đều theo đuổi. Nếu không có ích chung vượt trên mỗi người và hiệp nhất họ, những người yêu nhau có thể được cho là đã hiến thân, nhưng chưa hiến thân, nghĩa là, hiến dâng chính mình một cách trọn vẹn, trong chừng mực, trong tình yêu giữa các bản vị, họ vẫn là hai cá nhân, trong căn bản nhất, vẫn thuộc về chính họ bất luận họ có liên quan với người khác đến mức nào.
Mà, như ai cũng biết, đối với Aristốt, hình thức tình bạn tốt nhất là tình bạn vì nhân đức, trong đó mỗi người cùng nhau theo đuổi ích chung về sự trổi vượt của con người. Quả thực, chính trong mối liên hệ với điều tốt đẹp này mà mỗi người biểu lộ lòng tốt nội tại của mình. Nhưng điều gì xảy ra ở đây với chiều kích liên bản vị? Tình yêu hướng tới đức hạnh hay hướng tới người khác mà tôi cùng theo đuổi nó? Tôi đang hiến thân cho ích chung hay cho Anh/em, và nếu cả hai – điều có vẻ là câu trả lời đúng – đâu chính xác là mối tương quan giữa hai chuyển động yêu thương này? Chính để trả lời câu hỏi đặc thù này mà chúng ta thấy được ý nghĩa sâu sắc của hôn nhân đối với sự hiểu biết đúng đắn về bản chất con người. Trong hôn nhân, tính liên bản vị và tính xã hội, Tôi-Anh/em và Chúng ta, tình yêu ích chung và tình yêu bản vị, tình yêu ham muốn (điều tốt) và tình bạn (đối với bản vị) hoàn toàn trùng khớp với nhau trong nguyên tắc. Khi tôi thề hứa trong hôn nhân, tôi không chỉ đồng ý với người khác, mà còn đồng ý với sự hiệp nhất với người kia, tức chính là hôn nhân. (94) Khía cạnh định chế ở đây rất quan trọng: chính hôn nhân là một ích chung vượt trên thiện ích cá nhân của hai vợ chồng và thậm chí còn vượt quá tổng số họ nữa; nhưng đồng thời, điều tốt đẹp này hướng trực tiếp đến mối tương quan giữa các cá nhân. (95) Trong “Tôi-Anh/em” liên bản vị, mỗi người vượt quá chính mình hướng tới người kia, nhưng trong cái “chúng ta” của hôn nhân, chính mối tương quan này tự vượt quá chính nó, và chính sự siêu việt ở “trật tự cao hơn” này, nếu chúng ta có thể gọi nó như vậy, (96) ngăn cản mối tương quan liên bản vị thoái hóa thành một chủ nghĩa vị kỷ tay đôi (à deux).

Đây là lý do tại sao Richard thành St. Victor nói rằng tình yêu theo nghĩa trọn vẹn có một hình thức yếu tính “bộ ba” [triadic]. (97) Với cơ cấu tự do của con người trong mối tương quan với sự thiện và tình yêu, không phải ngẫu nhiên mà cuối cùng chúng ta có thể nói ở đây theo nghĩa chặt chẽ và trọn vẹn về việc hiến thân. Món quà tình yêu ở trung tâm ý nghĩa của tình yêu không chỉ là thiện chí, mà cuối cùng là sự kết hợp; sự kết hợp này có mô hình của nó trong việc trao đổi lời thề. Ở đây có sự thể hiện hoàn hảo về ba tác dụng của tình yêu mà chúng tôi đã nêu ở trên: sự hiệp nhất, việc ở trong nhau và sự xuất thần. Khi suy gẫm về hôn nhân như một mô hình tự hiến, điều quan trọng trước hết cần lưu ý là, do tính phản tỉnh của tự do, quyền tự quyết trong việc khẳng định một điều tốt lành, điều quan trọng là phải nhớ lại rằng người ta có thể tự hiến chính mình một cách trọn vẹn chỉ bằng cách đồng thời nhận một sự tự hiến khác, nghĩa là người ta chỉ có thể trao ban chính mình cho một người, và thực sự chỉ cho một người đến lượt mình cũng tự hiến. (98) Nói theo ngôn ngữ mà tôi sẽ làm rõ trong giây lát, tôi chỉ thể hiện sự tự do của mình trong mối tương quan với sự tự do được người khác thể hiện. Người ta có thể “hiến thân” cho một lý tưởng, một điều tốt đẹp cao quý, nhưng ở đây chúng ta đang sử dụng thuật ngữ “quà tặng” một cách loại suy, và loại suy chỉ có nghĩa trong tương quan với nguyên tắc của nó. Việc “tự hiến” cho một người không đáp trả giống như sự cống hiến cho một lý tưởng hơn là tự hiến theo nghĩa chặt chẽ. Sự trung thành với lời mình hứa (riêng tư) với người khác, chẳng hạn như chúng ta thấy trong tiểu thuyết của Jayber Crow, (99) giống như việc chân thật với chính mình hơn là thuộc về người khác. Nhưng trong hôn nhân, trước hết người ta không còn thuộc về chính mình nữa mà từ nay trở đi sở hữu chính mình như một thành viên: người này thuộc về người khác, và vì sự sở hữu này được đáp trả, nên người ta cùng với người khác thuộc về một điều gì đó lớn hơn. Chúng ta có thể làm sáng tỏ điểm này bằng cách đối chiếu nó với lập luận của Kant. Theo Kant, eros [ái dục] hàm ý việc đánh mất phẩm giá bản vị vì nó là một hình thức của sự dị trị [heteronomy], sự phục tùng người khác. Đối với ông, hôn nhân là nơi duy nhất dành cho ái dục [eros] biết tôn trọng phẩm giá con người bởi vì trong trường hợp này, người ta chỉ trao thân cho người mà mình đồng thời có trong sở hữu của mình. Do đó không có mất mát thực sự. Michael Waldstein đã so sánh một cách xuất sắc điều này với việc khắc phục xu hướng thua bạc thường trực của một người bằng cách mua sòng bạc. Không phải ngẫu nhiên mà Kant quan niệm hôn nhân như một sự trao đổi quyền sở hữu, một hợp đồng cho phép nhau sử dụng các thuộc tính tình dục của nhau. Lập luận mà chúng ta đang đưa ra ở đây hoàn toàn ngược lại: hôn nhân là một biểu hiện đặc biệt của phẩm giá con người, không phải vì nó tiêu biểu cho một chiến lược thắng vượt sự mất mát không thể tránh khỏi của bản thân, mà bởi vì nó là một hình thức tự hiến hoàn hảo.

Ở đây, chúng ta quay trở lại ý nghĩa hữu thể học của sự kết hợp “một xương một thịt”: việc cho đi và nhận lại sự tự hiến của người khác là một sự trao đổi bản thể thực sự bởi vì nó là sự hoàn thành mang tính mô hình của những gì được báo trước và bắt chước trong việc tự thông truyền và tham gia sâu sắc vào mọi hành vi của ý chí. Về mặt này, việc thực hiện hôn nhân là đỉnh cao của ý chí; do đó nó là sự hoàn hảo của tự do. Vì mọi hành vi của ý chí đều là một việc thông truyền bản thể, một hành vi hoàn hảo của ý chí, không chỉ là sự hiến tặng một phần của bản thân - một biểu thức của bản thân hay một sự dâng tặng một điều gì đó thuộc bản thân - mà là một quà tặng chính bản thân, có thể được hiểu là sự tạo ra một bản thể mới, hoặc ít nhất là một thứ gì đó tương tự như bản thể, một “hiện hữu mới đơn nhất”. Có thể nói, trong việc tự siêu việt lẫn nhau, hai người “kết cục” trong một điều kiện hữu thể học khác với điều kiện mà họ bắt đầu; họ vượt quá chính mình đi vào người khác trong người thứ ba, trong sự kết hợp vượt quá cả hai. Do đó, ở đây chúng ta có thể nói, một cách tự nhiên, tới một loại “biến thể” [transubstantiation]. Loại tương quan tự vượt quá bản thân này làm cho hôn nhân trở nên khác biệt về thể loại với mối tương quan “liên bản vị” đơn thuần Tôi/Anh, bất kể mối tương quan này sâu sắc đến đâu. Ngược lại với sự cằn cỗi của ý chí mà chúng ta thấy tiềm ẩn trong việc Luther hủy bỏ những lời thề thuộc bất cứ độ đậm đặc hữu thể học nào, khiến hôn nhân không gì khác hơn là một hợp đồng pháp lý liên quan đến hành động bên ngoài và tài sản, chúng ta thấy ở đây một loại sinh hoa trái mang tính loại suy với việc sinh sản đứa con trong việc tự hiến thân xác của hành vi vợ chồng. Trong trường hợp này, chúng ta tạo ra một thực tại hữu thể học đích thực, “sự hiện hữu mới đơn nhất” của sợi dây hôn phối. Chính thực tại hữu thể học này, chứ không phải chỉ là sự ưng thuận [fiat] pháp lý, quan niệm một cách thực chứng, làm cho hôn nhân về nguyên tắc trở thành bất khả tiêu. Nói cách khác, nó không thể hủy tiêu không những vì mọi người đồng ý nói nó là như vậy, có nghĩa là nó chỉ tồn tại trong ý chí của những người liên quan, mà bởi vì nó là một điều gì đó trong chính nó. (100) Làm suy yếu hoặc phủ nhận tính bất khả tiêu này, thì thực tại hữu thể học mà nó phát biểu sẽ làm cho ý chí trở nên bất lực trong nguyên tắc và do đó trong mọi hành vi của nó, hay nói cách khác, làm cho ý chí trở nên “không có bản thể” theo nghĩa đen.

Còn một kỳ
 
VietCatholic TV
Kyiv bắt Thiếu Tá Không Quân làm gián điệp cho Putin. Nga phản ứng mạnh TT Trump. Động đất lớn ở Nga
VietCatholic Media
03:33 31/07/2025


1. Ukraine bắt giữ thiếu tá không quân bị tình nghi làm gián điệp cho Nga

Cơ quan an ninh nội địa Ukraine đã bắt giữ một sĩ quan không quân bị cáo buộc làm gián điệp cho Nga bằng cách tiết lộ địa điểm và lịch trình bay của các máy bay chiến đấu do phương Tây cung cấp. Trung Tướng Vasyl Malyuk, nhà lãnh đạo của SBU, cho biết như trên vào chiều Thứ Tư, 30 Tháng Bẩy, sau khi bắt giữ viên thiếu tá này trong một cuộc hành quân không cần phải nổ phát súng nào.

Theo Tướng Malyuk, sĩ quan này, chỉ được xác định là thiếu tá trong một lữ đoàn không quân của Ukraine và là một huấn luyện viên bay, bị cáo buộc làm việc cho cơ quan tình báo quân sự Nga. Anh ta bị tình nghi hỗ trợ điều phối các cuộc tấn công bằng hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa vào các căn cứ không quân quan trọng của Ukraine.

Tướng Malyuk cho biết viên sĩ quan này bị cáo buộc thu thập dữ liệu về địa điểm và lịch trình của các máy bay phản lực Ukraine - bao gồm cả máy bay F-16 do Mỹ sản xuất và Mirage 2000 của Pháp - và tư vấn cho lực lượng Nga về cách vượt qua hệ thống phòng không của Ukraine.

Máy bay chiến đấu F-16 và Mirage 2000 được xem là lực lượng tăng cường quan trọng cho hệ thống phòng không của Ukraine khi Nga tăng cường các cuộc tấn công trên không trên khắp đất nước.

Nghi phạm cũng bị cáo buộc chia sẻ thông tin cá nhân của các phi công Ukraine, cùng với thông tin về vũ khí và chiến thuật chiến đấu của máy bay.

Ông bị bắt giữ khi đang cố gắng thu thập thêm thông tin tình báo và bị buộc tội phản quốc. Nếu bị kết án, ông sẽ phải đối mặt với án tù chung thân, theo tuyên bố.

Vụ bắt giữ này diễn ra sau vụ bắt giữ hồi đầu tháng này đối với hai công dân Trung Quốc bị tình nghi làm gián điệp cho chương trình hỏa tiễn Neptune của Ukraine, một phần quan trọng trong ngành công nghiệp quốc phòng trong nước.

Theo đuổi chính sách chiếm cứ Ukraine lâu dài, dưới thời Liên Xô, người Nga đã lũ lượt di dân sang Ukraine. Hậu quả là ngày nay trong tổng số 35,7 triệu dân, có đến 17,3% là người gốc Nga.

[Politico: Ukraine arrests air force major suspected of spying for Russia]

2. Động đất mạnh ở Viễn Đông Nga gây ra cảnh báo sóng thần, di tản ở Nhật Bản và Hoa Kỳ

Một trận động đất mạnh 8,8 độ richter gần bán đảo Kamchatka của Nga vào ngày 30 tháng 7 đã gây ra sóng thần ở vùng Viễn Đông của Nga, khiến người dân Nhật Bản và Hawaii phải di tản và đưa ra cảnh báo trên khắp Thái Bình Dương.

Sóng thần đã tấn công Kamchatka và đảo Sakhalin, gây hư hại một trường mẫu giáo và làm bị thương nhiều người, chính quyền địa phương cho biết. Ông Sergei Lebedev, Bộ trưởng Tình trạng Khẩn cấp khu vực, cho biết một con sóng cao 3-4 mét đã được ghi nhận ở bán đảo Viễn Đông.

Thống đốc Kamchatka Vladimir Solodov phát biểu: “Trận động đất hôm nay rất nghiêm trọng và là một trong những trận động đất mạnh nhất trong nhiều thập niên”.

“Các chuyên gia đã bắt đầu kiểm tra kỹ lưỡng các cơ sở quan trọng để phát hiện thiệt hại tiềm ẩn. Trường học, bệnh viện và nhà trẻ đang được kiểm tra trước.”

Những cảnh quay được chính quyền Nga chia sẻ trên mạng xã hội cho thấy thị trấn Severo-Kurilsk ở Sakhalin bị ngập lụt sau trận động đất.

Cơ quan Địa vật lý thống nhất của Viện Hàn lâm Khoa học Nga xác định tâm chấn nằm cách thành phố Petropavlovsk-Kamchatsky 149 km (93 dặm) về phía đông nam và ở độ sâu 17 km (11 dặm).

Sau Nga, Hoa Kỳ và Nhật Bản là những nước đầu tiên ban hành lệnh di tản, với những đợt sóng thần đầu tiên đã tràn vào đảo Hokkaido của Nhật Bản vào sáng sớm. Công nhân tại Nhà máy Điện hạt nhân Fukushima, nơi bị hư hại trong trận sóng thần năm 2011, đã được di tản.

Tại Hoa Kỳ, trận động đất đã gây ra cảnh báo di tản ở Hawaii và cảnh báo sóng thần dọc theo Bờ Tây.

Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump cho biết trên mạng xã hội: “Do trận động đất lớn xảy ra ở Thái Bình Dương, cảnh báo sóng thần đang có hiệu lực đối với người dân sống ở Hawaii”.

Sở Quản lý Khẩn cấp Honolulu đã cảnh báo về “những đợt sóng thần hủy diệt”. Người dân được khuyến cáo di chuyển đến nơi cao hơn.

Cảnh báo sóng thần cũng đã được ban hành ở New Zealand, Trung Quốc, Phi Luật Tân, Indonesia và nhiều nơi khác dọc theo bờ biển Thái Bình Dương.

Các nhà địa chấn học người Nga gọi đây là trận động đất mạnh nhất ở vùng trọng điểm địa chấn Kamchatka kể từ năm 1952.

Theo Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ, cường độ 8,8 độ richter khiến trận động đất này trở thành trận động đất mạnh thứ sáu trong lịch sử, ngang bằng với trận động đất năm 2010 ở Chile.

Kamchatka nằm trong Vành đai Lửa, một vành đai kiến tạo núi lửa ở Thái Bình Dương với hoạt động địa chấn mạnh mẽ. Khoảng 90% các trận động đất trên thế giới diễn ra trong vành đai này.

[Kyiv Independent: Powerful earthquake in Russia's Far East triggers tsunami warnings, evacuations in Japan and US]

3. Nga phản ứng trước việc Tổng thống Trump rút ngắn thời hạn đạt thỏa thuận với Ukraine, tuyên bố rằng ‘Mỗi tối hậu thư mới đều là một mối đe dọa’

Các quan chức Điện Cẩm Linh đã cố gắng tỏ ra không nao núng trước việc Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump rút ngắn thời gian đạt được thỏa thuận hòa bình với Kyiv, cáo buộc Tổng thống Trump đưa ra tối hậu thư có tính chất kích động chiến tranh.

Điện Cẩm Linh đã dành cuộc họp báo chiều Thứ Tư, 30 Tháng Bẩy để đáp lại lời đe dọa của Tổng thống Trump về việc áp thêm thuế quan đối với Nga nếu nước này không chấm dứt cuộc xâm lược kéo dài hơn ba năm của mình. Phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov phát biểu với các nhà báo rằng: “Chúng tôi đã phải sống dưới rất nhiều lệnh trừng phạt trong một thời gian khá dài - nền kinh tế của chúng tôi hoạt động dưới những hạn chế nghiêm ngặt, vì vậy, tự nhiên, chúng tôi đã phát triển được khả năng miễn dịch nhất định với nó”.

Ban đầu, Tổng thống Trump đặt ra thời hạn 50 ngày để Nga bắt đầu thực hiện các bước hướng tới hòa bình, nhưng sau đó đã giảm thời hạn xuống chỉ còn 10 ngày, tuyên bố rằng ông “không thấy lý do gì để chờ đợi” và “không còn hứng thú nói chuyện” với Putin nữa.

“Chúng tôi đã nghĩ rằng chúng tôi đã giải quyết được vấn đề đó nhiều lần, rồi Tổng thống Putin lại ra ngoài và bắt đầu phóng hỏa tiễn vào một số thành phố như Kyiv và giết chết rất nhiều người trong viện dưỡng lão hoặc bất cứ nơi nào đó”, Tổng thống Trump phát biểu vào ngày 28 tháng 7.

“Vì vậy, chúng tôi sẽ phải xem xét, và tôi sẽ giảm 50 ngày mà tôi đã đưa ra cho ông ta xuống một con số nhỏ hơn vì tôi nghĩ tôi đã biết câu trả lời - điều gì sẽ xảy ra.”

Kể từ thông báo này, các tuyên bố công khai của các quan chức Nga đã nhiều lần sử dụng từ “tối hậu thư” để mô tả động thái của Tổng thống Trump, đồng thời cố gắng khẳng định rằng chi phí bổ sung do thuế quan gây ra sẽ ít ảnh hưởng đến nền kinh tế Nga, bất chấp những dấu hiệu cho thấy điều ngược lại.

Dmitry Medvedev, Phó chủ tịch Hội đồng An ninh Nga nói rằng:

“Donald Trump đang chơi trò tối hậu thư với Nga: 50 ngày hay 10 ngày… Ông ta nên nhớ hai điều: Một, Nga không phải là Israel hay thậm chí là Iran. Hai, mỗi tối hậu thư mới đều là một mối đe dọa và một bước tiến tới chiến tranh. Không phải giữa Nga và Ukraine, mà là với chính đất nước của ông ta. Đừng đi theo con đường của Joe ngủ gật!”

Maria Zakharova, Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Nga nói:

“Không mối đe dọa nào từ bất kỳ ai có thể có lợi cho quá trình bình thường hóa. Đó là quy luật tự nhiên — nếu có mối đe dọa, làm sao chúng có thể thúc đẩy quá trình bình thường hóa? Nếu quá trình bình thường hóa diễn ra, thì các mối đe dọa tự nhiên sẽ lắng xuống như những tàn dư của quá khứ.”

“Một số lượng lớn các lệnh trừng phạt chưa từng có và nhiều hạn chế bất hợp pháp khác đã được áp đặt đối với Nga và các đối tác quốc tế của chúng tôi. Đến thời điểm này, các mối đe dọa về những hạn chế mới về cơ bản đã trở thành thông lệ.”

[Kyiv Independent: 'Each new ultimatum is a threat' — Russia responds to Trump's shortened Ukraine deal deadline]

4. ‘Xác lớn đầu trẻ con’ đấu với ‘Ngu như heo’: Cuộc gặp giữa Hoa Kỳ và Farage kết thúc trong hỗn loạn khi người Anh bênh vực Tổng thống Trump.

Chuyến thăm của các nhà lập pháp Hoa Kỳ tới Vương quốc Anh để thảo luận về công nghệ đã kết thúc trong hỗn loạn vào tuần này khi hai bên đưa ra những lời chỉ trích như “Manbaby” hay “Xác lớn đầu trẻ con”; và “Pig-headed” hay “Ngu như heo”

Nigel Farage, nhà lãnh đạo đảng Cải cách bảo thủ, đã hét vào mặt Dân biểu Hoa Kỳ Jamie Raskin trong một cuộc tranh luận gay gắt về quyền tự do ngôn luận, ngăn cản đảng viên Dân chủ này tiếp tục phát biểu, bốn người trong phòng nói với POLITICO.

Theo Raskin và ba người khác, tất cả đều là các nhà lập pháp đảng Dân chủ, nhà lập pháp Hoa Kỳ vừa bắt đầu phát biểu về lịch sử quyền tự do ngôn luận tại Hoa Kỳ và chuyển sang các mối đe dọa hiện tại do Tổng thống Trump gây ra thì bị Farage ngắt lời.

“ Chúng tôi không ở đây để nói về Ông Donald Trump,” Farage nói, theo lời Raskin trong một cuộc phỏng vấn từ Luân Đôn. Farage nói rằng “tôi là khách ở đây, và tôi nên cư xử như một vị khách. Và tôi nói với ông ta rằng ông ta là chủ nhà, và ông ta nên cư xử như một chủ nhà.”

Sau khi Farage cáo buộc Raskin là “người cứng đầu nhất mà ông từng gặp”, đảng viên Dân chủ cao cấp trong Ủy ban Tư pháp đã đáp trả: “Đây là lý do tại sao chúng tôi đã có một cuộc cách mạng chống lại các người.”

Những đảng viên Dân chủ khác xác nhận cuộc trao đổi với POLITICO là Dân biểu Lou Correa, Dân biểu Dân Chủ đơn vị California, Jasmine Crockett, Dân biểu Dân Chủ đơn vị Texas; và Eric Swalwell Dân biểu Dân Chủ đơn vị California. Tất cả đều cho rằng sự bùng nổ của Farage là vô lý, vì nó diễn ra vào giai đoạn cuối của một cuộc thảo luận vốn rất tôn trọng về quyền tự do ngôn luận.

Swalwell nói: “Farage trông có vẻ mất bình tĩnh và giống như một gã đàn ông hùng hổ”.

Phát ngôn nhân của Farage và đảng Cộng hòa trong Ủy ban Tư pháp Hạ viện không trả lời yêu cầu bình luận.

Các nhà lập pháp Hoa Kỳ đang có mặt tại Vương quốc Anh trong phái đoàn quốc hội do Chủ tịch Tư pháp Hạ viện Jim Jordan Dân biểu Đảng Cộng Hòa đơn vị Ohio dẫn đầu. Đảng Cộng hòa đang tận dụng chuyến đi này để phản đối Đạo luật An toàn Trực tuyến mới của nước này, mà họ cho là vi phạm quyền tự do ngôn luận và tấn công bất công vào các công ty công nghệ Hoa Kỳ. Luật này yêu cầu các công ty truyền thông xã hội phải kiểm tra độ tuổi của người dùng và chặn trẻ em truy cập nội dung khiêu dâm và các nội dung độc hại khác, đồng thời áp dụng các khoản tiền phạt nặng cho bất kỳ hành vi vi phạm nào.

Luật này cũng làm dấy lên lo ngại về quyền tự do ngôn luận ở Anh, nơi Đảng Cải cách Vương quốc Anh, gọi tắt là RCEP của Farage tuần này đã đe dọa bãi bỏ luật này. Điều này đã khiến các quan chức Đảng Lao động Anh, dẫn đầu là Bộ trưởng Công nghệ Peter Kyle, cáo buộc Farage “ủng hộ” những kẻ săn mồi tình dục.

“Thật kinh tởm”, Farage đáp trả trên kênh ITN của Anh. “Nó hoàn toàn là sự thật trần trụi.”

Raskin cho biết sự bùng nổ này là “phản ứng dữ dội của một chính trị gia người Anh rõ ràng không muốn có bất kỳ thách thức nào đối với quan điểm của mình rằng ông là nạn nhân của quyền tự do ngôn luận”, ám chỉ đến việc Farage nói rằng ông đã bị chặn khỏi các dịch vụ ngân hàng và bị đe dọa trực tuyến vì bài phát biểu chính trị của mình.

“Chúng tôi nghĩ rằng Đạo luật An toàn Trực tuyến có một số điểm rất tốt, và cũng có thể có một số điểm gây tranh cãi,” Raskin nói. “Tôi nghĩ sự can thiệp của những người Dân chủ không liên quan gì đến cuộc chiến đó có lẽ là quá sức chịu đựng của Farage, nhưng chúng tôi muốn nêu ra một số điểm chung về quyền tự do ngôn luận.”

Cuộc tranh luận qua lại giữa Farage và các thành viên Quốc Hội Mỹ diễn ra vào cuối một cuộc họp do đảng này tổ chức, thảo luận về các vấn đề tự do ngôn luận trên toàn thế giới. Cuộc họp diễn ra sau một chuyến tham quan riêng tư tại quốc hội, với sự tham gia của đại diện từ các nhóm như Liên minh Bảo vệ Tự do (Alliance Defending Freedom), một công ty luật đứng sau nhiều vụ kiện pháp lý bảo thủ đã được đưa lên Tòa án Tối cao Hoa Kỳ.

Raskin vừa bắt đầu bài thuyết trình về lịch sử các vấn đề tự do ngôn luận ở Hoa Kỳ và những rủi ro đang diễn ra do chính quyền Tổng thống Trump gây ra thì bị Farage liên tục ngắt lời. Bà cho biết những bình luận của Raskin lúc đó chủ yếu tập trung vào luật pháp và không mang tính đảng phái.

“Gã đàn ông này không cảm thấy như vậy. … Anh ta định thu hẹp cuộc trò chuyện chỉ vào những chủ đề mà anh ta muốn thảo luận, và mọi thứ khác sẽ bị dập tắt, bởi vì tôi đoán đó là những gì anh ta cho là quyền tự do ngôn luận,” Crockett nói.

Cô cười: “Có một chút kịch tính, và bằng cách nào đó, nó không liên quan đến tôi hay Swalwell.”

Cuộc họp gây tranh cãi tại Luân Đôn diễn ra sau khi phái đoàn Hoa Kỳ đến thăm Brussels, nơi Jordan và đảng Cộng hòa nêu lên mối quan ngại về Đạo luật dịch vụ số và Đạo luật thị trường số của khối.

Các nhà lập pháp của Đảng Cộng hòa cảnh báo rằng những luật này, nhằm yêu cầu các nền tảng phải có hành động quyết liệt hơn đối với nội dung có hại, xâm phạm quyền tự do ngôn luận của người Mỹ và đặc biệt gây hại cho các công ty công nghệ lớn của Hoa Kỳ.

“Các công ty Mỹ mà chúng tôi đã trao đổi đã trình bày vụ việc rằng nhóm luật sư của họ đã phải đấu tranh trên nhiều mặt trận về vấn đề kiểm duyệt và cố gắng hạn chế những gì họ đưa lên mạng”, Dân biểu Scott Fitzgerald Dân biểu Đảng Cộng Hòa đơn vị Wiscosin, một thành viên trong chuyến đi, cho biết trong một cuộc phỏng vấn hôm thứ Ba trên tờ GB News bảo thủ.

Ông nói thêm: “Bạn sẽ thấy một cuộc chiến liên tục từng bước để bảo đảm rằng điều này không lan sang nước Mỹ”.

[Politico: ‘Manbaby’ vs. ‘pig-headed’: US meeting with Farage ends in chaos.]

5. Netanyahu cáo buộc Starmer ‘xoa dịu’ Hamas bằng lời tuyên thệ thành lập nhà nước Palestine

Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu đã chỉ trích người đồng cấp Anh vào hôm Thứ Tư, 30 Tháng Bẩy, sau khi chính phủ Anh tuyên bố sẽ công nhận nhà nước Palestine vào cuối năm nay.

“Starmer khen thưởng cho hành động khủng bố tàn bạo của Hamas và trừng phạt các nạn nhân của nó”, Netanyahu nói.

Ông nói thêm: “Một quốc gia thánh chiến ở biên giới Israel HÔM NAY sẽ đe dọa nước Anh NGÀY MAI.

“Việc xoa dịu những kẻ khủng bố thánh chiến luôn thất bại. Nó cũng sẽ thất bại với các bạn. Điều đó sẽ không xảy ra.”

Lời chỉ trích được đưa ra sau khi Starmer — dưới áp lực từ chính đảng Lao Động của ông và sự thúc đẩy của Pháp về vấn đề này — đã đưa ra cam kết có điều kiện về việc công nhận nhà nước Palestine trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 9.

Thủ tướng Anh phát biểu với Nội các hôm thứ Ba rằng “bây giờ là thời điểm thích hợp để đưa ra lập trường này” vì tình hình nhân đạo ở Gaza ngày càng xấu đi và triển vọng về một tiến trình hòa bình ngày càng mờ nhạt.

Ông Starmer hứa rằng Vương quốc Anh sẽ công nhận một nhà nước Palestine vào tháng 9, trừ khi chính phủ Israel thực hiện “các bước đi thực chất” để chấm dứt khủng hoảng ở Gaza và cam kết thực hiện một tiến trình hòa bình lâu dài, hướng đến giải pháp hai nhà nước. Ông Starmer nhắc lại rằng Hamas phải trả tự do cho tất cả các con tin còn lại bị bắt giữ trong các cuộc tấn công đẫm máu vào Israel ngày 7 tháng 10 năm 2023, giải giáp vũ khí và chấp nhận rằng họ sẽ không còn vai trò gì trong chính quyền Gaza.

Động thái này đánh dấu sự thay đổi đáng kể trong chính sách của Anh tại Trung Đông và diễn ra sau hoạt động vận động hành lang mạnh mẽ của các nghị sĩ trong Đảng Lao động cầm quyền của Starmer.

Netanyahu trước đây đã chỉ trích Starmer về các lệnh trừng phạt nhằm vào các bộ trưởng Israel và chỉ trích quyết định “đáng xấu hổ” của Anh vào năm ngoái về việc đình chỉ việc bán một số thành phần vũ khí mà lực lượng Israel sử dụng ở Gaza.

Văn phòng thủ tướng Anh cho biết Starmer đã trao đổi với Netanyahu trước cuộc họp Nội các Anh vào chiều thứ Ba.

Theo bản ghi chép cuộc gọi từ Văn phòng Thủ tướng số 10, Starmer nói với Thủ tướng Israel rằng Vương quốc Anh “vẫn kiên quyết” lên án “tội ác khủng bố” của Hamas.

Nhưng ông thúc giục Netanyahu “hành động ngay lập tức để dỡ bỏ mọi hạn chế đối với việc tiếp cận viện trợ và cung cấp thực phẩm cần thiết cho những người đang đau khổ ở Gaza”.

[Politico: Netanyahu accuses Starmer of ‘appeasing’ Hamas with Palestinian statehood vow]

6. Canada công nhận nhà nước Palestine

Thủ tướng Mark Carney cho biết Canada có ý định công nhận nhà nước Palestine trước kỳ họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 9.

Ông cáo buộc chính phủ Israel “liên tục thất bại” trong việc ngăn chặn thảm họa nhân đạo đang ngày càng xấu đi nhanh chóng ở Gaza.

Carney phát biểu vào chiều thứ tư tại Ottawa: “Nỗi đau khổ ngày càng sâu sắc của người dân không cho phép trì hoãn hành động phối hợp quốc tế nhằm hỗ trợ hòa bình, an ninh và phẩm giá của mọi sinh mạng con người”.

Carney cho biết, sự công nhận này dựa trên cam kết của Chính quyền Palestine về việc cải cách chính quyền và tổ chức tổng tuyển cử vào năm 2026 “mà Hamas không thể tham gia”.

Thủ tướng cho biết ông đã nêu rõ các điều kiện với Chủ tịch Chính quyền Palestine Mahmoud Abbas trước khi đưa ra thông báo.

Carney cũng nhắc lại rằng Hamas phải ngay lập tức thả tất cả các con tin và Hamas phải giải giáp.

Israel lên án tuyên bố của Carney.

Bộ Ngoại giao Israel cho biết trong một tuyên bố: “Sự thay đổi lập trường của chính phủ Canada vào thời điểm này là một phần thưởng cho Hamas và gây tổn hại đến những nỗ lực đạt được lệnh ngừng bắn ở Gaza và khuôn khổ cho việc thả các con tin”.

Ông Carney đưa ra thông báo này sau khi triệu tập một cuộc họp Nội các hiếm hoi vào mùa hè để thảo luận về quyết định này. Cam kết này phù hợp với Pháp và Vương quốc Anh, và được coi là một sự thay đổi đáng kể trong chính sách đối ngoại của Canada.

Đầu tuần này, thủ tướng đã gọi cuộc khủng hoảng nhân đạo ở Gaza là “đáng tiếc”.

Chương trình Lương thực Thế giới của Liên Hiệp Quốc và UNICEF đã cảnh báo rằng các chỉ số tiêu thụ thực phẩm và dinh dưỡng ở Gaza đã đạt mức tồi tệ nhất kể từ khi cuộc xung đột bắt đầu sau cuộc tấn công của Hamas vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023.

“Gaza đang bên bờ vực nạn đói”, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres phát biểu hôm thứ Ba. “Người Palestine ở Gaza đang phải gánh chịu một thảm họa nhân đạo với quy mô khủng khiếp. Đây không phải là một lời cảnh báo. Đó là một thực tế đang diễn ra trước mắt chúng ta.”

Trong những tuần gần đây, Canada đã cùng các nhà lãnh đạo Âu Châu bày tỏ thái độ cứng rắn hơn đối với Israel nhằm đẩy nhanh viện trợ nhân đạo.

Các chiến binh do Hamas lãnh đạo đã giết hại khoảng 1.200 người và bắt cóc 251 người trong cuộc tấn công ngày 7 tháng 10 vào Israel, châm ngòi cho cuộc chiến. Hamas vẫn đang giam giữ khoảng 50 con tin, với ít nhất 20 người được tường trình vẫn còn sống. Theo Bộ Y tế Gaza, cuộc tấn công trả đũa của Israel đã giết chết khoảng 60.000 người Palestine, hơn một nửa trong số đó là phụ nữ và trẻ em.

Tổng thống Pháp Emmanuel Macron là người đầu tiên tuyên bố công nhận Nhà nước Palestine. Thủ tướng Anh Keir Starmer cũng có động thái tương tự vào thứ Ba sau cuộc họp với Nội các.

Ông cam kết Vương quốc Anh sẽ công nhận nhà nước Palestine vào tháng 9 trừ khi chính phủ Israel thực hiện “các bước đi thực chất” để chấm dứt cuộc khủng hoảng ở Gaza và cam kết thực hiện tiến trình hòa bình lâu dài mang lại giải pháp hai nhà nước.

Thủ tướng Benjamin Netanyahu phát biểu đáp lại thông báo của Vương quốc Anh rằng: “Starmer thưởng cho chủ nghĩa khủng bố tàn bạo của Hamas và trừng phạt các nạn nhân của nó”.

Ông Starmer đã thảo luận quyết định của mình với ông Carney vào thứ Ba. Hôm thứ Tư, Ngoại trưởng Pháp Jean-Noël Barrot đã kêu gọi nhiều quốc gia khác làm điều tương tự.

Canada là quốc gia G7 thứ ba đưa ra tuyên bố như vậy — hành động mà trước đây Tổng thống Trump đã chỉ trích.

“Bạn có thể lập luận rằng bạn đang thưởng cho Hamas nếu bạn làm điều đó. Tôi không nghĩ họ nên được thưởng”, Tổng thống Trump phát biểu trên chuyên cơ Không lực Một trên đường từ Scotland trở về Mỹ sau cuộc gặp với Starmer và đạt được thỏa thuận với Liên minh Âu Châu.

Hôm thứ Hai, Ngoại trưởng Anita Anand đã có mặt tại New York để tham dự hội nghị của Liên Hiệp Quốc về giải pháp hai nhà nước cho cuộc xung đột giữa Israel và Palestine.

Trong hội nghị kéo dài hai ngày mà Israel và Hoa Kỳ tẩy chay, Anand đã công bố một gói viện trợ nhân đạo mới, bao gồm 30 triệu đô la Canada để giúp đỡ người Palestine ở Gaza và Bờ Tây và 10 triệu đô la Canada cho Chính quyền Palestine để thực hiện cải cách quản trị hướng tới mục tiêu thành lập nhà nước.

Bà cũng đã gặp gỡ các đối tác từ Na Uy, Pháp, Ai Cập và Chính quyền Palestine.

Quan điểm lâu nay của Canada là ủng hộ giải pháp hai nhà nước, bao gồm việc thành lập một nhà nước Palestine độc lập, dân chủ, khả thi và có chủ quyền, loại trừ Hamas khỏi quyền quản lý.

Trước thông báo vào tối thứ Tư, Anand đã cùng 14 người đồng cấp của mình — bao gồm Pháp, Tây Ban Nha và Úc — đưa ra tuyên bố chung bày tỏ sự sẵn sàng xem xét công nhận nhà nước Palestine.

Các nhà lãnh đạo kêu gọi các quốc gia khác chưa công nhận nhà nước Palestine cũng làm như vậy - trước hoặc trong cuộc họp của Liên Hiệp Quốc vào tháng 9.

Mười một trong số 27 quốc gia thành viên Liên Hiệp Âu Châu đã công nhận nhà nước Palestine, bao gồm Tây Ban Nha, Rumani, Thụy Điển, Ireland và Bulgaria.

[Politico: Canada to recognize Palestinian statehood]

7. Hỏa tiễn Nga tấn công bãi tập quân sự Ukraine, 3 binh sĩ thiệt mạng, 18 người bị thương

Nga đã tiến hành một cuộc tấn công bằng hỏa tiễn vào cơ sở huấn luyện quân sự của Lực lượng Lục quân Ukraine vào ngày 29 tháng 7, khiến ít nhất ba binh sĩ thiệt mạng và 18 người khác bị thương.

Vụ tấn công đã khiến ba người thiệt mạng và 18 người bị thương tính đến 9:30 tối cùng ngày, phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng Ukraine, Chuẩn tướng Oleksii Hromov, cho biết như trên trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv chiều Thứ Tư, 30 Tháng Bẩy.

Chuẩn tướng Oleksii Hromov cho biết: “Mặc dù đã áp dụng các biện pháp an ninh nhưng thật không may, vẫn không thể tránh khỏi hoàn toàn thương vong về mặt quân sự”.

Ông cho biết một cuộc điều tra chính thức về nguyên nhân gây ra tổn thất nhân sự đã được tiến hành. Một ủy ban do nhà lãnh đạo Cơ quan Thực thi Pháp luật Quân sự dẫn đầu cũng đã được thành lập để điều tra vụ tấn công.

Chuẩn tướng Oleksii Hromov cho biết thêm: “Nếu phát hiện hành động hoặc sự không hành động của các quan chức đã dẫn đến thương vong của quân nhân, những người chịu trách nhiệm sẽ phải chịu trách nhiệm”.

Ông nhấn mạnh rằng giới lãnh đạo quân đội cũng đang thực hiện “các biện pháp an ninh bổ sung” để bảo vệ tính mạng của binh lính trong các cuộc không kích của Nga vào các bãi tập và trung tâm huấn luyện.

Cuộc tấn công này diễn ra sau một loạt cuộc tấn công của Nga vào các cơ sở huấn luyện quân sự của Ukraine vào tháng 5 và tháng 6.

[Kyiv Independent: Russian missile hits Ukrainian military training ground, killing 3 soldiers, injuring 18]

8. Tổng thống Trump nói thời hạn 10 ngày để Nga làm trung gian cho lệnh ngừng bắn ở Ukraine bắt đầu từ thứ Ba

Tổng thống Trump hôm thứ Ba cho biết Nga phải đồng ý ngừng bắn ở Ukraine trước ngày 8 tháng 8 nếu không sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị trừng phạt, đẩy nhanh thời hạn trước đó vẫn còn bỏ ngỏ.

Hồi tháng 7, Tổng thống Trump đã đặt ra thời hạn 50 ngày cho thỏa thuận với Ukraine, đe dọa sẽ áp thuế nếu không đạt được thỏa thuận. Hôm thứ Hai, trong cuộc gặp với Thủ tướng Anh Keir Starmer, ông cho biết sẽ rút ngắn thời hạn này xuống còn “10 hoặc 12 ngày”.

Trên chiếc Không lực Một vào hôm Thứ Ba, 29 Tháng Bẩy, trên đường trở về Hoa Kỳ, Tổng thống Trump cho biết thời gian đang trôi qua và chỉ còn “10 ngày nữa kể từ hôm nay”.

“Và sau đó chúng ta sẽ áp thuế quan”, Tổng thống Trump nói thêm, “và tôi không biết liệu điều này có ảnh hưởng đến Nga hay không, bởi vì rõ ràng là ông ấy muốn tiếp tục chiến tranh”.

Tổng thống đã thay đổi quan điểm về cuộc chiến ở Ukraine trong suốt nhiệm kỳ thứ hai của mình, gần đây ông bày tỏ rằng ông “thất vọng” với Putin.

Ông cho biết hôm thứ Ba rằng ông vẫn chưa nhận được thông tin từ Nga về mốc thời gian mới.

“Nếu muốn biết sự thật, tôi có thể nói rằng chúng ta đã bị Putin ném cho rất nhiều lời lẽ nhảm nhí”, Tổng thống Trump phát biểu tại một cuộc họp Nội các hồi tháng 7. “Ông ấy lúc nào cũng tỏ ra rất tốt bụng, nhưng hóa ra lại chẳng có ý nghĩa gì.”

Xin lưu ý cụm từ “nhảm nhí” là cách chúng tôi dịch cho bớt thô tục không phải của Tổng thống Trump. Lúc nói về điều này, Tổng thống Trump thực ra đã chửi thề.

Nỗ lực của Tổng thống Trump nhằm ngừng bắn trong chiến tranh là một phần trong nỗ lực được coi là người gìn giữ hòa bình quốc tế, một vai trò mà ông cho biết sẽ là “di sản đáng tự hào nhất” của mình trong bài diễn văn nhậm chức lần thứ hai.

Tổng thống đã than thở về việc thiếu thỏa thuận trong cuộc chiến, với cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraine bắt đầu vào năm 2022 khi Tổng thống Joe Biden còn là tổng thống. Trước khi nhậm chức, Tổng thống Trump khẳng định sẽ chấm dứt chiến tranh ở Ukraine ngay ngày đầu tiên của nhiệm kỳ thứ hai, đổ lỗi cho Tổng thống Biden vì đã để chiến tranh nổ ra.

[Politico: Trump says 10-day deadline for Russia to broker ceasefire in Ukraine starts Tuesday]

9. Ukraine sẽ chuyển hoạt động huấn luyện quân sự xuống lòng đất, Syrskyi nói

Giữa lúc Nga tiến hành các cuộc tấn công chết người vào bãi huấn luyện của Ukraine, Tổng tư lệnh quân đội Ukraine Oleksandr Syrskyi cho biết hoạt động huấn luyện quân sự nên được chuyển xuống lòng đất càng nhiều càng tốt để bảo vệ binh lính tốt hơn.

“Toàn bộ lãnh thổ Ukraine nằm trong tầm bắn của hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa của đối phương”, Syrskyi phát biểu sau cuộc họp hàng tháng về công tác chuẩn bị cho quân đội. “Quá trình huấn luyện phải được chuyển xuống lòng đất càng nhiều càng tốt.”

Một hỏa tiễn của Nga đã bắn trúng một cơ sở huấn luyện của Lực lượng Lục quân vào ngày 29 tháng 7, khiến quân đội Ukraine phải mở cuộc điều tra chính thức. Vụ tấn công khiến ba người thiệt mạng và 18 người bị thương.

Một ủy ban đặc biệt đã được thành lập để xác định xem liệu sai sót của các quan chức quân sự có góp phần gây ra thương vong hay không.

Trước đó, vào ngày 1 tháng 3, một cuộc tấn công bằng hỏa tiễn Iskander-M của Nga đã đánh trúng một cuộc tập trận ở Tỉnh Dnipropetrovsk, khiến một số lượng không xác định binh lính Ukraine thiệt mạng và bị thương.

Máy bay điều khiển từ xa trinh sát của Nga được tường trình đã nhận dạng được những người lính tập trung trước vụ tấn công. Vụ việc đã khiến Syrskyi đình chỉ hai chỉ huy và mở một cuộc điều tra nội bộ, trong khi Cục Điều tra Nhà nước Ukraine đã mở một cuộc điều tra hình sự về những cái chết này.

Tướng Syrskyi nhấn mạnh rằng việc cải thiện huấn luyện và an toàn cho quân nhân vẫn là ưu tiên hàng đầu của Quân đội. Theo chương trình huấn luyện được sửa đổi, Ukraine đã kéo dài khóa huấn luyện chiến đấu cơ bản lên 51 ngày và bổ sung các học phần mới về chiến tranh máy bay điều khiển từ xa, sinh tồn trong chiến hào và kỹ thuật. Trước đó, thời lượng huấn luyện là 49 ngày.

Các kế hoạch cũng đang được tiến hành để mở rộng chương trình giảng dạy ngầm và xây dựng các trường đào tạo mới với sự giúp đỡ của quỹ bác ái Come Back Alive.

“Binh lính của chúng tôi được huấn luyện càng tốt thì họ sẽ càng an toàn hơn, và (Ukraine) cũng vậy”, Syrskyi nói.

[Kyiv Independent: Ukraine to move military trainings underground, Syrskyi says]

10. Các thủ đô Liên Hiệp Âu Châu yêu cầu Brussels chi gần 130 tỷ euro cho quốc phòng

Mười tám quốc gia đã yêu cầu Ủy ban Âu Châu cho vay lãi suất thấp 127 tỷ euro trước hạn chót là thứ Ba để tăng cường quốc phòng và có khả năng mua vũ khí cho Ukraine.

Trong một chiến thắng lớn cho Ủy ban, các quốc gia từ Estonia đến Bồ Đào Nha đã yêu cầu tham gia vào chương trình cho vay đổi vũ khí của Hành động an ninh cho Âu Châu, gọi tắt là SAFE, chương trình này cung cấp các khoản vay lên tới 150 tỷ euro với lãi suất thấp.

Sáng kiến này là một phần của chương trình ReArm Europe rộng lớn hơn của Ủy ban, được đề xuất vào tháng 3, nhằm mục đích giảm sự phụ thuộc quân sự kéo dài hàng thập niên của khối này vào Hoa Kỳ.

Trong một tuyên bố đưa ra hôm thứ Tư, Ủy ban cho biết các quốc gia sau đây bày tỏ sự quan tâm đến việc vay vốn: Bỉ, Bulgaria, Síp, Cộng hòa Tiệp, Estonia, Tây Ban Nha, Phần Lan, Hung Gia Lợi và Lithuania, Slovakia, Latvia, Croatia, Ba Lan, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Rumani, Pháp và Ý.

Trong đơn yêu cầu gửi Ủy ban, các quốc gia đã đặt ra số tiền tối thiểu và tối đa mà họ sẽ chính thức yêu cầu vay vào cuối năm. Điều này mở đường cho cơ quan hành pháp Liên Hiệp Âu Châu khai thác thị trường tài chính và vay thay mặt cho 27 quốc gia thành viên.

Ủy ban không báo cáo số liệu của từng quốc gia, nhưng Phó Thủ tướng Ba Lan Władysław Kosiniak-Kamysz đã nói rằng Warsaw đã yêu cầu 45 tỷ euro - có thể là yêu cầu cao nhất từ bất kỳ quốc gia nào.

“ Sự quan tâm mạnh mẽ đến SAFE, với ít nhất 127 tỷ euro trong các hợp đồng mua sắm quốc phòng tiềm năng, thể hiện sự thống nhất và tham vọng của Liên Hiệp Âu Châu trong lĩnh vực an ninh và quốc phòng”.

Bằng cách cùng nhau mua vũ khí thông qua SAFE, các quốc gia có thể bảo đảm mức giá thấp hơn so với việc tự mình mua, và có thể trả nợ các khoản vay lãi suất thấp trong khoảng thời gian 45 năm. Các đồng minh hàng đầu của Ukraine cho biết họ sẽ sử dụng chương trình này để cung cấp vũ khí cho quốc gia đang bị chiến tranh tàn phá này.

Ủy ban cho biết thứ Ba chỉ là “hạn chót mềm” và những nước nộp muộn sẽ không bị từ chối. Các quốc gia phải chính thức nộp yêu cầu vay vốn và các dự án quốc phòng mà họ dự định thực hiện theo SAFE trước hạn chót ngày 30 tháng 11.

[Politico: EU capitals ask Brussels for nearly €130B to spend on defense]
 
Khôi hài: Sợ UAV, Putin bắt vệ sĩ vác hỏa tiễn đi ngay sau lưng. Belarus là nhà máy tử thần của Nga
VietCatholic Media
16:25 31/07/2025


1. Putin hoang tưởng được hộ tống bằng bệ phóng hỏa tiễn chống máy bay điều khiển từ xa khi đi dạo sau khi tên bạo chúa đáng sợ hủy bỏ ‘Ngày Hải quân’

Vladimir Putin hoang tưởng đã bị quay video khi đang được hộ tống bằng một bệ phóng hỏa tiễn chống máy bay điều khiển từ xa khi đi dạo sau khi tên bạo chúa đáng sợ này hủy bỏ “Ngày Hải quân”.

Đoạn phim khó tin cho thấy một nhân viên an ninh khoác trên vai một hỏa tiễn đánh chặn drone trong khi nhà độc tài tự do đi lại xung quanh. Nhân viên này dường như đang vác một khẩu “bắn và quên” Yolka - được sử dụng để bắn hạ các máy bay điều khiển từ xa ném bom đang bay đến.

Một đoạn video lan truyền nhanh trên mạng xã hội cho thấy cảnh một mật vụ mặc vest đang vác một thiết bị đánh chặn cá nhân đã sẵn sàng sử dụng, được che chắn sơ sài bằng một chiếc túi.

Một tay vệ sĩ khác thậm chí còn được nhìn thấy mang theo chiếc cặp hạt nhân được tường trình của Putin - được dùng để phóng một cuộc tấn công hạt nhân vào đối phương. Biện pháp an ninh kỳ lạ này đã phơi bày sự hoang tưởng của Putin khi Ukraine tiếp tục dũng cảm chống trả các cuộc tấn công chớp nhoáng của Nga.

Các cảnh quay riêng biệt cho thấy cách Yolka - một máy bay điều khiển từ xa nhỏ gọn, kiểu bốn cánh quạt - được sử dụng để tiêu diệt máy bay điều khiển từ xa quân sự. Đoạn video được đăng tải sau khi trùm mafia Vladimir Putin tức giận hủy bỏ cuộc diễn hành hải quân thường niên của Nga vào Chúa Nhật vì lo ngại các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa của Ukraine.

Thay vào đó, các sự kiện khiêm tốn hơn đã được tổ chức với sự tham gia của Putin.

Điện Cẩm Linh khẳng định quyết định này được đưa ra vì “lý do an ninh” trong bối cảnh cuộc chiến đẫm máu với Ukraine. Ukraine đã phá hủy hơn một phần ba hạm đội chiến đấu của Nga tại Hắc Hải kể từ cuộc xâm lược của Putin vào năm 2022, cũng như tiêu diệt hơn một triệu binh sĩ.

Sự kiện của Nga thường được coi là cơ hội để Putin phô trương sức mạnh quân sự thông qua các cuộc diễn hành tàu chiến. Trung tâm Chống Thông tin Sai lệch Ukraine lần đầu tiên thông báo hủy bỏ sự kiện này trên mạng khi họ nói: “Điện Cẩm Linh không thể tiếp tục giả vờ rằng chiến tranh không ảnh hưởng đến hậu phương của Nga nữa.

“Chiến tranh ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống ở Nga, ngay cả những sự kiện mang tính biểu tượng và gây chú ý như cuộc duyệt binh hải quân. Ngày nay, tàu chiến Nga không thể cảm thấy an toàn ngay cả trên lãnh thổ của mình.

“Trong bối cảnh này, tin tức Hàng Không Mẫu Hạm duy nhất của Nga, Đô đốc Kuznetsov, sẽ bị ngừng hoạt động và tháo dỡ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.”

Công việc đóng Hàng Không Mẫu Hạm khổng lồ này đã bị đình chỉ vào đầu tháng này với các báo cáo cho rằng con tàu này sẽ bị đưa vào bãi phế liệu.

Kể từ năm 2022, Ukraine đã có hành động tàn phá lực lượng hải quân của Putin một cách có hệ thống bằng các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa và hỏa tiễn.

Năm 2024, tàu tuần dương hỏa tiễn mới nhất và duy nhất còn lại của Putin ở Hắc Hải đã bị lực lượng Ukraine phá hủy.

“Zyklon” đã bị đánh chìm cùng với tàu quét mìn 266-M, Kovrovets, trong một cuộc tấn công bằng hỏa tiễn ATACMS tàn khốc.

Việc đánh chìm tàu này là một phần trong chiến dịch đang diễn ra của Ukraine nhằm vào Hạm đội Hắc Hải của Nga.

Tháng 4 năm ngoái, Hải quân Ukraine cho biết họ đã đánh chìm tàu cấp cứu Kommuna - con tàu lâu đời nhất vẫn còn phục vụ trong Hải quân Nga.

Các quan chức cao cấp của Ukraine cho biết họ đã tiêu diệt 34 phần trăm trong số 184 tàu chiến của Hạm đội Hắc Hải đã bị vô hiệu hóa.

[The Sun: Watch as paranoid Putin is escorted by anti-drone rocket launcher on walkabout after fearful despot cancelled ‘Navy Day’]

2. Tổng thống Moldova cảnh báo về sự can thiệp bầu cử ‘chưa từng có’ của Nga

Tổng thống Moldova Maia Sandu hôm thứ Tư đã cáo buộc Nga đang lên kế hoạch cho một chiến dịch “chưa từng có” nhằm can thiệp vào cuộc bầu cử quốc hội vào tháng 9 của nước này, đồng thời cảnh báo về nỗ lực quy mô lớn liên quan đến tài trợ bất hợp pháp, tấn công mạng và thông tin sai lệch.

“Liên bang Nga muốn kiểm soát Cộng hòa Moldova từ mùa thu trở đi”, bà Sandu phát biểu tại một cuộc họp báo ở thủ đô Chișinău. Bà gọi kế hoạch này là “mối đe dọa trực tiếp đến an ninh quốc gia, chủ quyền đất nước và tương lai Âu Châu của Moldova”, đồng thời kêu gọi người dân và các thể chế tiếp tục cảnh giác.

Chính quyền đã xác định ít nhất 10 công cụ can thiệp chính vào quá trình bầu cử, bao gồm việc sử dụng khoảng 100 triệu euro tiền điện tử cùng với deepfake, các cuộc biểu tình được trả tiền và giáo sĩ có liên hệ với Điện Cẩm Linh để thao túng dư luận.

Một báo cáo năm 2024 của cơ quan tình báo Moldova đã chỉ ra những chiến thuật tương tự trong cuộc bầu cử tổng thống năm ngoái và cuộc trưng cầu dân ý về tư cách thành viên Liên Hiệp Âu Châu. Các nhà điều tra cho biết nhà tài phiệt Moldova đang lẩn trốn Ilan Shor đã giúp rửa tiền nhằm mục đích mua phiếu bầu thông qua một mạng lưới ngân hàng.

Hôm thứ Ba, bốn đảng thân Nga ở Moldova đã công bố kế hoạch thành lập một khối để tranh cử và thách thức chính phủ, vốn cam kết theo đuổi mục tiêu gia nhập Liên Hiệp Âu Châu vào năm 2030 trong bối cảnh Nga đang có chiến tranh với nước láng giềng Ukraine. Trong cuộc trưng cầu dân ý tháng 10 năm ngoái, 50,3 % cử tri đã ủng hộ việc theo đuổi gia nhập Liên Hiệp Âu Châu, một phần trong chiến dịch do chính quyền Sandu khởi xướng.

Cuộc bầu cử quốc hội Moldova sẽ được tổ chức vào ngày 28 tháng 9 và các cuộc thăm dò hiện tại cho thấy Đảng Hành động và Đoàn kết của Sandu đang dẫn đầu với 27 phần trăm sự ủng hộ.

[Politico: Moldova’s president warns of ‘unprecedented’ Russian election meddling]

3. Hãng hàng không Aeroflot của Putin tiếp tục bị tê liệt bởi vụ tấn công mạng lớn ủng hộ Ukraine, “phá hủy” hệ thống công nghệ thông tin, khiến các chuyến bay bị đình trệ và gây ra hỗn loạn

Hãng hàng không quốc gia lớn nhất của Nga, Aeroflot, cho đến nay vẫn tiếp tục bị tê liệt bởi một vụ “tấn công mạng quy mô lớn”, khiến hàng trăm và có thể đã lên đến hàng ngàn chuyến bay phải hủy bỏ. Các tin tặc thân Ukraine đã nhận trách nhiệm về vụ việc hỗn loạn tại các phi trường trên khắp nước Nga.

Sự việc xảy ra sau khi máy bay điều khiển từ xa của quân đội Ukraine gây ra sự gián đoạn nghiêm trọng, dẫn đến nhiều ngày khó khăn cho du khách. Nhóm tin tặc Silent Crow và Cyber Partisans BY, hai nhóm ủng hộ Ukraine, đã nhận trách nhiệm chung về vụ tấn công.

Họ nói rằng họ đã nỗ lực phá hoại hệ thống máy tính của hãng hàng không Nga “trong một năm”.

Từ hôm thứ Hai, tình trạng hỗn loạn đã bắt đầu bao trùm phi trường Sheremetyevo, là trung tâm của Aeroflot tại Mạc Tư Khoa.

Hàng chục, rồi hàng trăm chuyến bay bị hủy - và dự kiến sẽ còn nhiều chuyến bay bị hủy bỏ hơn nữa.

Một tuyên bố của Silent Crow cho biết: “Cùng với các đồng nghiệp từ Cyber Partisans BY, chúng tôi tuyên bố đã hoàn thành thành công một chiến dịch kéo dài và quy mô lớn, kết quả là cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin nội bộ của Aeroflot Russian Airlines đã bị xâm nhập và phá hủy hoàn toàn. Trong một năm, chúng tôi đã thâm nhập vào mạng lưới doanh nghiệp của họ, phát triển khả năng truy cập một cách có phương pháp, đi sâu hơn vào tận lõi của cơ sở hạ tầng.”

Những tin tặc này cũng cho biết họ ủng hộ phe đối lập dân chủ ở nước láng giềng Belarus - một đồng minh thân cận của Nga.

Hành khách của Aeroflot được thông báo: “Aeroflot Nga đã thông báo thay đổi lịch trình do trục trặc hệ thống thông tin. Một số chuyến bay đã bị đổi lịch hoặc hủy bỏ.

“Hành khách trên các chuyến bay bị hủy có thể được hoàn tiền và đặt lại vé trong vòng 10 ngày tới.”

Nhưng hành khách càng thêm bối rối khi thông báo tương tự được đưa ra: “Xin lưu ý rằng các phòng vé tại phi trường tạm thời không thể hoàn tiền hoặc đặt lại vé”.

Hành khách được lệnh: “Để tránh tình trạng đông đúc, xin vui lòng rời khỏi Sân bay Sheremetyevo và đặt vé lại hoặc yêu cầu hoàn tiền vé thông qua trung tâm trợ giúp cuộc gọi.

“Cảm ơn sự hiểu biết của bạn.”

Tuy nhiên, nhiều người Nga có thể sẽ mất tiền vì cơ sở dữ liệu của Aeroflot bị phá hủy. Trừ trường hợp có các giấy tờ chứng minh như lệnh chuyển tiền, lịch trình chuyến bay, khả năng đòi tiền lại sẽ rất phiền phức. Trên các mạng xã hội, người Nga bắt đầu dùng từ Aeroflop thay vì Aeroflot. Flop có nghĩa là lật nhào, té ngã.

Aeroflot đã bị ảnh hưởng bởi các lệnh trừng phạt của phương Tây nhưng vẫn tiếp tục hoạt động kể từ cuộc xâm lược tàn bạo của Putin vào Ukraine.

Những tin tặc này cũng đã gửi một thông điệp chế nhạo tới cơ quan an ninh FSB của Nga.

Họ nói: “Các ông thậm chí còn không có khả năng bảo vệ được các cơ sở hạ tầng quan trọng của mình.

“Gửi đến tất cả nhân viên của bộ máy đàn áp — an ninh kỹ thuật số của các bạn không đáng kể và bản thân các bạn đã bị theo dõi từ lâu.

“Trong tương lai gần, việc công bố một phần dữ liệu thu được sẽ bắt đầu.”

“Chúng tôi không chỉ phá hủy cơ sở hạ tầng — chúng tôi còn để lại dấu vết. Vinh quang cho Ukraine! Belarus muôn năm!”

Những tin tặc này còn tuyên bố rằng họ đã “có được và tải xuống toàn bộ cơ sở dữ liệu lịch sử chuyến bay”.

“Việc khôi phục có thể sẽ cần đến hàng chục triệu đô la. Thiệt hại này mang tính chiến lược”, họ nói thêm.

Đầu năm nay, Silent Crow tuyên bố đã tấn công Rostelecom, công ty truyền thông khổng lồ của nhà nước Nga.

Điện Cẩm Linh bày tỏ rõ ràng rằng họ rất lo ngại về vụ tấn công mạng nhằm vào Aeroflot, điều này đã được văn phòng tổng công tố Nga xác nhận.

Phát ngôn nhân của Putin, Dmitry Peskov, cho biết sự gián đoạn của hãng hàng không này là “rất đáng báo động”.

Ông cho biết: “Mối đe dọa về tin tặc vẫn là mối đe dọa đối với tất cả các công ty lớn cung cấp dịch vụ cho công chúng”.

“Tất nhiên, chúng tôi sẽ làm rõ thông tin và chờ đợi những lời giải thích có liên quan.”

Hôm Thứ Năm, 31 Tháng Bẩy, Trung Tướng Igor Krasnov, Tổng Công Tố Nga, cho biết một vụ án hình sự đã được khởi tố về vụ hack này.

[The Sun: AERO-FLOP Putin’s Aeroflot airline crippled by huge pro-Ukraine hack that ‘destroyed’ IT system grounding flights & sparking chaos]

4. Với các nhà máy dân sự bị đóng băng và các nhà máy chiến tranh được phục hồi, chế độ của Lukashenko trở thành nhà sản xuất tử thần cho hỏa tiễn Cẩm Linh

Mạc Tư Khoa đang săn lùng các phụ tùng hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa. Theo Trung Tướng Oleh Ivashchenko, nhà lãnh đạo Cơ quan Tình báo Đối ngoại Ukraine, Belarus đang nhanh chóng mở rộng sản xuất vũ khí để bù đắp cho sự thiếu hụt phụ tùng trong ngành công nghiệp quốc phòng Nga.

Belarus thực tế đã bị Nga thôn tính hoàn toàn dưới thời nhà lãnh đạo hiện tại, Alexander Lukashenko. Điện Cẩm Linh đã điều động các căn cứ quân sự thường trực tại Belarus, bao gồm cả lực lượng không quân. Minsk đã hỗ trợ phát động cuộc chiến chống lại Ukraine bằng cách cho phép sử dụng lãnh thổ của mình và cũng cưỡng bức di dời dân thường, bao gồm cả trẻ em, để tái định cư.

“Mạc Tư Khoa đang tìm kiếm các nguồn phụ tùng thay thế, đặc biệt là cho máy bay điều khiển từ xa và hệ thống hỏa tiễn, trong bối cảnh các lệnh trừng phạt và rào cản hậu cần của phương Tây. Chính phủ Belarus đang đẩy nhanh việc điều động các cơ sở liên quan đến UAV, thiết bị điện tử lưỡng dụng và hệ thống ngắm bắn”, hãng tin này đưa tin.

Chiến lược đổi mới của Belarus trước đây tập trung vào các lĩnh vực dân sự, chẳng hạn như máy móc nông nghiệp, dược phẩm và sản xuất thực phẩm. Giờ đây, phát triển quân sự là ưu tiên hàng đầu.

Cơ quan tình báo Ukraine lưu ý rằng “Hầu hết các cơ sở liên quan đến quân đội dự kiến sẽ được xây dựng và đưa vào hoạt động trong vòng một đến một năm rưỡi”.

Ví dụ, một nhà máy sản xuất phụ tùng máy bay điều khiển từ xa composite đã được xây dựng dựa trên Trung tâm Công nghệ UAV Đa năng. Dự án, bị đình trệ vào năm 2020, đã được khôi phục sau khi chiến tranh toàn diện nổ ra. Đến cuối năm 2024, nhà máy đã được xây dựng và trang bị xong, và bắt đầu sản xuất vào tháng 2 năm 2025.

Nhà máy Zenit-BelOMO đang điều động sản xuất các hệ thống định vị và phụ tùng xe hơi cho thị trường CIS. Dây chuyền sản xuất dự kiến đi vào hoạt động vào tháng 8, và nhà máy dự kiến sẽ đạt công suất tối đa vào cuối năm.

Trong khi đó, nhà máy Integral đang mở rộng sản xuất vi mạch sử dụng kép, có thể được sử dụng trong hệ thống dẫn đường cho hỏa tiễn hành trình Kh-101 của Nga.

Ông cho biết thêm: “Một xưởng mới dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào tháng 12 và sản xuất quy mô lớn dự kiến vào năm 2026”.

5. Con đường gia nhập Liên Hiệp Âu Châu của Moldova phụ thuộc vào chiến thắng của đảng ủng hộ Âu Châu, Sandu nói

Tổng thống Moldova Maia Sandu cho biết con đường hội nhập Liên minh Âu Châu của đất nước bà chỉ có thể tiếp tục nếu Đảng Hành động và Đoàn kết, gọi tắt là PAS ủng hộ Liên Hiệp Âu Châu của bà giành được đa số ghế trong quốc hội trong cuộc bầu cử sắp tới.

Trong một cuộc phỏng vấn với hãng truyền thông NewsMaker của Moldova vào ngày 29 tháng 7, Sandu cho biết: “Hoặc là PAS giành được đa số và chúng ta tiếp tục con đường Âu Châu của mình, hoặc nếu PAS không giành được đa số, chúng ta sẽ mất mọi thứ mà chúng ta đã nỗ lực trong nhiều năm qua — nền dân chủ, tương lai của chúng ta và số tiền mà Liên Hiệp Âu Châu gửi để chúng ta có thể phát triển”.

Cuộc bầu cử quốc hội sắp tới của Moldova, dự kiến diễn ra vào tháng 9 này, được kỳ vọng sẽ là thời điểm quyết định tương lai của đất nước - sự lựa chọn giữa việc tiếp tục con đường hội nhập với Liên minh Âu Châu hay quay lại dựa vào ảnh hưởng của Mạc Tư Khoa.

Khi được hỏi về khả năng thành lập liên minh với Đảng của chúng ta (Partidul Nostru) - được coi rộng rãi là thân Nga - Sandu đã bác bỏ ý tưởng này, nhắc lại rằng nếu không có đa số PAS, quỹ đạo Liên Hiệp Âu Châu của Moldova có thể bị bị trật đường ray.

Sandu cho biết: “Nếu PAS không chiếm được đa số, tôi không thấy chúng ta có thể tiếp tục con đường Âu Châu như thế nào”.

Sandu cũng chỉ ra một vấn đề lớn hơn trong chính trường Moldova – nhiều đảng phái chính trị nhỏ hơn của đất nước này thiếu sự ủng hộ của công chúng, nguồn tài chính phù hợp và khả năng thành lập liên minh ổn định.

Bà cũng làm rõ cam kết trong chiến dịch tranh cử của đảng mình, kêu gọi hoàn tất các cuộc đàm phán gia nhập Liên Hiệp Âu Châu vào năm 2028. Sandu giải thích rằng mục tiêu không phải là trở thành thành viên chính thức vào thời điểm đó, mà là kết thúc giai đoạn đàm phán, cho phép Moldova chuyển sang giai đoạn cuối cùng của quá trình gia nhập.

[Kyiv Independent: Moldova's EU path depends on pro-European party win, Sandu says]

6. Cơ quan An ninh Ukraine, gọi tắt là SBU cho biết hơn 10.000 vụ tấn công bằng vũ khí hóa học của Nga đã được ghi nhận kể từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh toàn diện.

Cơ quan An ninh Ukraine, gọi tắt là SBU báo cáo vào ngày 30 tháng 7 rằng Nga đã thực hiện hơn 10.000 cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học nhằm vào lực lượng Ukraine kể từ khi bắt đầu cuộc xâm lược toàn diện.

Cơ quan này cho biết quân đội Nga đã nhiều lần sử dụng các chất hóa học bị cấm, bao gồm lựu đạn khí dung K-51, RGR và RG-VO chứa CS (chlorobenzylidene malonitrile) và CN (chloroacetophenone), cả hai đều là chất gây kích ứng bị cấm.

Việc sử dụng các tác nhân như vậy bị cấm theo Công ước về vũ khí hóa học năm 1993 mà Nga đã phê chuẩn.

SBU cho biết phương pháp điều động phổ biến nhất là sử dụng máy bay điều khiển từ xa góc nhìn thứ nhất, gọi tắt là FPV thả bom hóa học trực tiếp vào các vị trí phòng thủ của Ukraine.

Khi phát nổ, các chất này gây kích ứng nghiêm trọng cho mắt và hệ hô hấp, thường buộc quân đội Ukraine phải rời khỏi các vị trí được bảo vệ dưới hỏa lực đang diễn ra.

Trong báo cáo ngày 4 tháng 7, Cơ quan Tình báo và An ninh Quân đội Hòa Lan, gọi tắt là MIVD xác nhận rằng Nga đã leo thang từ việc điều động các tác nhân kiểm soát bạo loạn sang sử dụng chloropicrin - một loại hóa chất có khả năng gây tử vong trong không gian hạn chế.

[Kyiv Independent: Over 10,000 Russian chemical attacks documented since start of full-scale war, Ukraine's SBU says]

7. Brussels đã cứng rắn với Trung Quốc như thế nào để bảo đảm thỏa thuận thương mại với Tổng thống Donald Trump

Tuần trước, bà Ursula von der Leyen đã tỏ ra cứng rắn về vấn đề thương mại với Trung Quốc tại Bắc Kinh. Chỉ vài ngày sau, bà đã được đền đáp bằng một thỏa thuận thương mại với Tổng thống Mỹ Donald Trump.

Sau khi đạt được thỏa thuận bắt tay tại khu nghỉ dưỡng vàng Turnberry của tổng thống Hoa Kỳ ở Scotland vào Chúa Nhật, Chủ tịch Ủy ban Âu Châu đã nói rõ - mà không nhắc đến Trung Quốc - rằng Washington và Brussels cần phải hợp tác để đối đầu với mối đe dọa cạnh tranh từ phía đông.

“Về thép và nhôm, Liên minh Âu Châu và Hoa Kỳ đang phải đối mặt với thách thức chung từ bên ngoài là tình trạng dư thừa công suất toàn cầu”, bà nói – ám chỉ đến việc Trung Quốc sản xuất quá mức các sản phẩm được trợ cấp như thép, cũng như tấm pin mặt trời hoặc pin. Khi Washington và Brussels “hợp tác với nhau như những đối tác, lợi ích sẽ rõ rệt cho cả hai bên”, bà nói thêm.

Thỏa thuận của Liên Hiệp Âu Châu với Hoa Kỳ, nhằm ngăn chặn lời đe dọa của Tổng thống Trump về việc tăng thuế đối với hầu hết hàng hóa của Liên Hiệp Âu Châu lên 30 phần trăm vào ngày 1 tháng 8, được đưa ra vài ngày sau khi von der Leyen gặp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Cường tại Bắc Kinh trong một sự kiện đáng lẽ phải là một buổi lễ ăn mừng, nhưng cuối cùng lại không như vậy.

Phát biểu sau hội nghị thượng đỉnh kéo dài một ngày giữa Liên Hiệp Âu Châu và Trung Quốc - đánh dấu kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao - bà von der Leyen cho biết mối quan hệ giữa khối này và Trung Quốc đã đạt đến “điểm uốn”.

Bà cho biết: “Thương mại phải trở nên cân bằng hơn”, đồng thời lập luận rằng Liên Hiệp Âu Châu sẽ không thể giữ thị trường của mình mở cửa cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc trừ khi Bắc Kinh có hành động quyết liệt về mối quan hệ thương mại.

Trong chiến lược giành được Tòa Bạch Ốc, von der Leyen, một người theo chủ nghĩa xuyên Đại Tây Dương trong thâm tâm, trong những tháng gần đây đã dần dần cứng rắn hơn với Bắc Kinh - đổi lại, Bắc Kinh đã cảnh báo rằng họ sẽ trả đũa bất kỳ quốc gia nào ký kết thỏa thuận thương mại với Hoa Kỳ.

Trước thềm hội nghị thượng đỉnh Liên Hiệp Âu Châu-Trung Quốc, kỳ vọng về bất kỳ kết quả cụ thể nào trong lĩnh vực thương mại đều thấp, khi một số quan chức Liên Hiệp Âu Châu chỉ ra rằng đây là một thành tựu mà Liên Hiệp Âu Châu và Trung Quốc đạt được trong bối cảnh hiện tại. Đúng như dự đoán trước hội nghị thượng đỉnh, Liên Hiệp Âu Châu đã liệt kê hai ngân hàng Trung Quốc vào danh sách trừng phạt mới nhất đối với Nga, khiến Bắc Kinh phải “bày tỏ sự bất mãn mạnh mẽ và phản đối kiên quyết” ở một bước đi mà họ gọi là “nghiêm trọng”.

Cuối cùng, hai bên đã đồng ý về một cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho việc cấp phép nhanh chóng cho nguyên liệu thô, điều mà nhiều công ty Âu Châu đã phàn nàn khi Trung Quốc siết chặt kiểm soát xuất khẩu khoáng sản đất hiếm. Tuy nhiên, những bất đồng lớn - chẳng hạn như về thuế chống trợ cấp của Liên Hiệp Âu Châu đối với xe điện Trung Quốc và việc tiếp cận các gói viện trợ thiết bị y tế - vẫn chưa được giải quyết.

8. Ukraine kỳ vọng các khoản vay quốc phòng của Liên Hiệp Âu Châu sẽ giúp tài trợ cho ngành công nghiệp quốc phòng của nước này

Hôm Thứ Năm, 31 Tháng Bẩy, Ngoại trưởng Andrii Sybiha lên tiếng hoan nghênh động thái của Liên minh Âu Châu nhằm tăng chi tiêu quốc phòng thông qua hình thức vay chung, cho rằng đây có thể là cơ hội để đầu tư trực tiếp vào ngành công nghiệp quốc phòng của Ukraine.

Bình luận của Sybiha được đưa ra sau khi 18 quốc gia Liên Hiệp Âu Châu bày tỏ sự quan tâm đến việc tiếp cận ít nhất 127 tỷ euro hay 146 tỷ đô la tiền vay theo chương trình tài trợ Hành động An ninh cho Âu Châu, gọi tắt là SAFE - một sáng kiến của Âu Châu được thiết kế nhằm củng cố lĩnh vực quốc phòng của khối thông qua việc vay chung.

“Đây là một động thái đáng hoan nghênh của Âu Châu trong việc huy động nguồn tài trợ quốc phòng,” Sybiha phát biểu trên X. “Âu Châu đang trên đà tăng cường đáng kể ngành công nghiệp quốc phòng của mình, và Ukraine là một yếu tố thiết yếu trong nỗ lực này. Đây là một bước đi đúng hướng — hướng tới việc tăng cường khả năng tự chủ và ổn định của lục địa.”

Ông nói thêm rằng Ukraine hy vọng các nước Liên Hiệp Âu Châu sẽ sử dụng một số quỹ mới để hỗ trợ sản xuất quốc phòng của mình, gọi đây là “khoản đầu tư hiệu quả về mặt chi phí cho hòa bình và an ninh lâu dài của Âu Châu”.

Chương trình SAFE, do Ủy ban Âu Châu khởi xướng và được Hội đồng Liên minh Âu Châu thông qua vào tháng 5, cho phép các nước Liên Hiệp Âu Châu tiếp cận các khoản vay dài hạn với giá cạnh tranh được bảo đảm bằng nguồn vốn vay chung của Liên Hiệp Âu Châu. Các khoản vay này nhằm mục đích tăng cường mua sắm quốc phòng chung và giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp bên ngoài.

[Politico: Ukraine expects EU defense loans to help fund its defense industry, Sybiha says]

9. Dưới áp lực trừng phạt của Liên Hiệp Âu Châu, các hãng vận tải Ấn Độ được tường trình đang tìm cách thoát khỏi hợp đồng với nhà máy lọc dầu có liên hệ với Nga

Reuters đưa tin, trích dẫn nguồn tin thân cận với vấn đề này rằng hai công ty vận tải biển của Ấn Độ đã yêu cầu chấm dứt hợp đồng với Nayara Energy, một công ty lọc dầu của Ấn Độ do tập đoàn dầu khí khổng lồ Rosneft của Nga sở hữu một phần.

Seven Islands Shipping và Great Eastern Shipping, gọi tắt là GESCO đã yêu cầu Nayara thả ba tàu chở dầu là Bourbon, Courage và Jag Pooja, với lý do có nguy cơ bị trừng phạt, năm nguồn tin cho biết với Reuters.

Nayara vận hành nhà máy lọc dầu lớn thứ ba của Ấn Độ và thuộc sở hữu phần lớn của các công ty Nga, bao gồm Rosneft. Nhà máy lọc dầu này xuất khẩu các sản phẩm dầu mỏ tinh chế và nguồn cung cấp cho thị trường nội địa Ấn Độ.

Công ty ngày càng chịu nhiều áp lực kể từ khi Liên Hiệp Âu Châu thông qua gói trừng phạt thứ 18 vào ngày 18 tháng 7, nhắm vào ngành năng lượng của Nga và lần đầu tiên là một nhà máy lọc dầu của Ấn Độ có liên kết với Rosneft.

Sau lệnh trừng phạt, Nayara buộc phải cắt giảm sản lượng tại nhà máy lọc dầu 400.000 thùng/ngày do hạn chế lưu trữ nhiên liệu. Một tàu chở dầu thô Ural của Nga đã bị chuyển hướng khỏi cảng Vadinar của công ty, trong khi hai tàu khác không thể bốc hàng.

Giám đốc của Nayara, Alessandro Des Dorides, đã từ chức ngay sau khi lệnh trừng phạt được công bố. Công ty cũng đã đệ đơn kiện Microsoft sau khi công ty nhu liệu Mỹ này đình chỉ dịch vụ do các vấn đề tuân thủ.

Ấn Độ, vốn từ lâu phụ thuộc vào dầu mỏ Trung Đông, đã tăng mạnh lượng nhập khẩu từ Nga sau khi Mạc Tư Khoa phát động cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine năm 2022, tận dụng mức chiết khấu lớn và nhu cầu giảm của Âu Châu.

Các lệnh trừng phạt mới nhất của Liên Hiệp Âu Châu là một phần trong nỗ lực rộng lớn hơn nhằm siết chặt nguồn thu từ dầu mỏ của Nga và hạn chế khả năng tài trợ cho cuộc chiến ở Ukraine. Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump cũng đã đe dọa áp thuế 100% đối với các quốc gia tiếp tục nhập khẩu dầu thô của Nga.

New Delhi đã phản đối lời kêu gọi của phương Tây về việc cắt đứt quan hệ kinh tế với Nga, duy trì thái độ trung lập về cuộc chiến.

[Kyiv Independent: Under EU sanctions pressure, Indian shippers reportedly seek to exit contracts with Russian-linked refiner]

10. Áp lực đè nặng lên Merz nhằm trừng phạt Israel vì Gaza

Khi nạn đói đang rình rập ở Gaza, Thủ tướng Đức Friedrich Merz phải đối mặt với áp lực phải từ bỏ sự ủng hộ mạnh mẽ dành cho Israel và cho phép Brussels trừng phạt chính phủ của Thủ tướng Benjamin Netanyahu.

Tuần này, Ủy ban Âu Châu đã đề xuất dừng một số phần của Hiệp định liên kết Liên Hiệp Âu Châu-Israel, cảnh báo rằng chính phủ Israel đã gây ra một “thảm họa nhân đạo” đe dọa “gần như toàn bộ dân số Gaza”.

Ngày càng nhiều nước Liên Hiệp Âu Châu ủng hộ việc thực hiện bước đi này, nhưng cho đến nay Đức vẫn từ chối ký vào đề xuất, một động thái sẽ đánh dấu sự thay đổi rõ ràng so với sự ủng hộ kiên định truyền thống của nước này dành cho Israel. Các nhà ngoại giao từ nhiều nước Liên Hiệp Âu Châu đã bày tỏ sự thất vọng với Berlin sau khi Merz đề nghị ông muốn xem tình hình thực tế diễn biến như thế nào trong những ngày tới.

Áp lực quốc tế đã gia tăng lên Israel trong hai tuần qua giữa những cảnh báo ngày càng nghiêm trọng về tình hình mà hàng trăm ngàn người dân Gaza đang phải đối mặt. Tại Âu Châu, các nhà lãnh đạo, bao gồm Tổng thống Pháp Emmanuel Macron và Thủ tướng Anh Keir Starmer, đã tuyên bố ý định công nhận một nhà nước Palestine, yêu cầu Thủ tướng Israel Netanyahu chấm dứt các hành động thù địch và mở ra cơ hội tiếp cận có ý nghĩa cho các tổ chức cứu trợ để cung cấp thực phẩm và thiết bị y tế.

Ngay cả Tổng thống Donald Trump cũng thừa nhận trong tuần này rằng đang có “nạn đói thực sự” ở Gaza.

Hôm thứ Hai, Ủy ban Âu Châu đã bỏ qua những lời lẽ ngoại giao xã giao trong nhiều tháng qua trong một đánh giá gay gắt về tình hình, trực tiếp cáo buộc Israel vi phạm luật nhân đạo quốc tế. Văn bản đề xuất hành động chống lại Israel nêu rõ nguy cơ nạn đói cho toàn bộ người dân Gaza cũng như “hàng ngàn thường dân thiệt mạng” và “sự sụp đổ của các dịch vụ cơ bản”.

Đề xuất của Ủy ban, được lưu hành giữa các đại sứ Liên Hiệp Âu Châu hôm thứ Ba, kêu gọi đình chỉ một phần quyền tiếp cận của Israel đối với chương trình Horizon Europe, chương trình nghiên cứu chủ chốt của khối. Tuy nhiên, bất chấp tính cấp bách, biện pháp này dường như không nhận được đủ sự ủng hộ từ các nước Liên Hiệp Âu Châu tại cuộc họp của các đặc phái viên, và Đức cùng ba quốc gia khác đã bác bỏ đề xuất này.

Nhưng có dấu hiệu cho thấy sự phản đối của Merz đang dịu đi. Nhà lãnh đạo Đức cho biết hôm thứ Hai rằng Berlin sẽ chờ đợi kết quả chuyến thăm Israel dự kiến vào tuần tới của các ngoại trưởng Pháp, Đức và Anh. “Chúng tôi đương nhiên có quyền tổ chức thêm các cuộc thảo luận và đưa ra quyết định tiếp theo”, ông nói. “Chúng tôi cho rằng chính phủ Israel hoàn toàn sẵn sàng thừa nhận rằng cần phải hành động ngay bây giờ.”

Trong nước, Merz cũng đang phải đối mặt với áp lực ngày càng gia tăng. Đảng Dân chủ Xã hội, gọi tắt là SPD của liên minh cầm quyền tại Đức, cùng với một số thành phần đối lập, đã bắt đầu đặt câu hỏi về sự ủng hộ kiên định của nước này đối với Israel trong bối cảnh tình trạng khẩn cấp ở Gaza.

Các cuộc đàm phán chính phủ dự kiến sẽ diễn ra sau chuyến thăm của Ngoại trưởng Đức, Derya Türk-Nachbaur, một nghị sĩ SPD, cho biết. “Tôi muốn chúng ta quyết định các biện pháp cụ thể hơn.”

“Phối hợp ở cấp độ Âu Châu cũng có nghĩa là có thể gia tăng áp lực với Pháp và Anh, và có lẽ cũng không ngăn cản các biện pháp do Liên Hiệp Âu Châu công bố”, bà nói thêm. Vào tháng 6, SPD đã chính thức kêu gọi chính phủ ngừng ngăn cản việc đình chỉ một phần thỏa thuận liên kết ở cấp độ Liên Hiệp Âu Châu.

“Áp lực lên Đức có thể đến từ các đảng phái nội bộ nhiều hơn là từ các nước Liên Hiệp Âu Châu khác”, một nguồn tin ngoại giao nói với POLITICO. Ngay cả đảng Dân chủ Kitô Giáo của Merz cũng “không muốn biện minh hay che đậy hành động của Israel nữa”.

Ý, quốc gia đã liên kết với Đức trong việc phản đối kế hoạch của Ủy ban, cũng đang xem xét lại lập trường của mình. “Ý đứng về phía Đức, nhưng trên thực tế, cả hai nước đều đang cân nhắc thay đổi lập trường, và các cuộc thảo luận đang được tiến hành với chính phủ Israel”, nguồn tin này cho biết thêm. Các nhà ngoại giao và quan chức Liên Hiệp Âu Châu khác, tất cả đều được giấu tên để thảo luận về các vấn đề nhạy cảm, cũng đã xác nhận lập trường này.

Theo các nhà ngoại giao và quan chức, một số quốc gia hiện đang mất kiên nhẫn và muốn Ủy ban hành động mạnh tay hơn và đình chỉ các mối quan hệ thương mại quan trọng với Israel, bao gồm cả lệnh cấm nhập khẩu tất cả hàng hóa từ các vùng lãnh thổ bị tạm chiếm.

Phát ngôn nhân của Ngoại trưởng Hòa Lan Caspar Veldkamp nói với POLITICO rằng do “thiếu tiến triển” trong các thỏa thuận giữa Liên Hiệp Âu Châu và Israel về viện trợ nhân đạo cho Gaza, Hòa Lan đã quyết định ủng hộ việc đình chỉ chương thương mại của thỏa thuận liên kết Liên Hiệp Âu Châu-Israel.

[Politico: Pressure piles on Merz to punish Israel over Gaza]

11. Pháp kêu gọi công nhận rộng rãi hơn về nhà nước Palestine

Ngoại trưởng Pháp Jean-Noël Barrot kêu gọi nhiều quốc gia công nhận nhà nước Palestine.

“Tại New York cùng với 14 quốc gia khác, Pháp phát động lời kêu gọi chung: Chúng tôi bày tỏ mong muốn công nhận Nhà nước Palestine và mời những quốc gia chưa công nhận hãy tham gia cùng chúng tôi”, Barrot viết trong một bài đăng trên X, kèm theo tuyên bố chung của các Ngoại trưởng tại hội nghị Liên Hiệp Quốc ở New York.

Tuyên bố được ký bởi các Ngoại trưởng của Andorra, Úc, Canada, Phần Lan, Pháp, Iceland, Ireland, Luxembourg, Malta, New Zealand, Na Uy, Bồ Đào Nha, San Marino, Slovenia và Tây Ban Nha.

Các bộ trưởng lên án các cuộc tấn công ngày 7 tháng 10 năm 2023 của Hamas; kêu gọi nhóm khủng bố này ngay lập tức thả tất cả các con tin mà chúng vẫn đang giam giữ; bày tỏ sự ủng hộ đối với giải pháp hai nhà nước ở Trung Đông; và kêu gọi các nước khác công nhận nhà nước Palestine trước kỳ họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 9. Họ cũng bày tỏ “mối quan ngại sâu sắc” về số lượng lớn thương vong dân sự và tình hình nhân đạo ở Gaza trong bối cảnh cuộc chiến của Israel vẫn tiếp diễn tại vùng đất ven biển này.

Tuần trước, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã tuyên bố nước ông sẽ công nhận Palestine là một nhà nước tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, làm dấy lên sự lên án từ Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, người cho rằng động thái này “là phần thưởng cho khủng bố”. Ngoại trưởng Hoa Kỳ Marco Rubio gọi quyết định này là “liều lĩnh”.

Một quan chức ngoại giao Pháp đã phản bác lại những lời chỉ trích, lập luận rằng động thái này có thể thúc đẩy “các đối tác Ả Rập và Hồi giáo chủ chốt” “thực hiện các bước” hướng tới “cô lập Hamas” bằng cách đồng ý ủng hộ việc giải trừ hoàn toàn tổ chức Hồi giáo này và loại trừ tổ chức này khỏi bất kỳ chính quyền Palestine nào trong tương lai để đổi lấy việc công nhận quốc gia.

Thủ tướng Anh Keir Starmer đã có động thái theo hướng của Pháp vào hôm thứ Ba, tuyên bố rằng Vương quốc Anh sẽ công nhận nhà nước Palestine trừ khi chính phủ Israel thực hiện “các bước đi thực chất” để chấm dứt cuộc khủng hoảng ở Gaza.

[Politico: France urges broader recognition of Palestinian statehood]

12. Hoa Kỳ cảnh báo Thủ tướng Keir Starmer rằng việc thành lập nhà nước Palestine là “phần thưởng cho Hamas”

Hoa Kỳ đã cảnh báo Keir Starmer rằng quyết định công nhận nhà nước Palestine của Vương quốc Anh có nguy cơ mang lại lợi ích cho Hamas mà không mang lại hòa bình cho khu vực.

Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Tammy Bruce, đã được hỏi về tuyên bố của chính phủ Anh hôm thứ Ba về việc công nhận Nhà nước Palestine của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 9, trừ khi Israel thực hiện “các bước đi thực chất” để chấm dứt cuộc khủng hoảng ở Gaza. Các điều kiện đó bao gồm cam kết thực hiện một tiến trình hòa bình lâu dài, hướng đến giải pháp hai nhà nước.

Bruce nói: “Đây là một cái tát vào mặt các nạn nhân của ngày 7 tháng 10”, ám chỉ đến các cuộc tấn công chết người của Hamas vào Israel năm 2023. “Nó là phần thưởng cho Hamas.”

Bruce cho biết biện pháp này “mang lại hy vọng cho một nhóm người” và khuyến khích những kẻ xấu không hợp tác với các kênh ngoại giao.

“Trong bất kỳ môi trường bình thường nào khác, khi ai đó bị đánh bại hoàn toàn, họ sẽ đầu hàng. Nhưng trong trường hợp này, điều đó hoàn toàn không xảy ra,” Bruce nói.

Bruce nói thêm rằng Hamas dựa vào “niềm hy vọng mà họ nhận được về thời gian đau khổ kéo dài, mức độ thúc đẩy thế giới chấp nhận các lập luận của họ.”

Những lời kêu gọi công nhận đã lan rộng khắp Vương quốc Anh, trên khắp các diễn đàn chính trị, sau khi những hình ảnh về nạn đói ở Gaza được công bố. Hôm thứ Ba, ông Starmer đã phát biểu trước Nội các rằng “bây giờ là thời điểm thích hợp để thúc đẩy lập trường này” do triển vọng của một tiến trình hòa bình đang ngày càng mờ nhạt.

Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu cho biết động thái của Anh sẽ khiến Hamas trở nên táo bạo hơn và gây nguy hiểm cho tổ chức này.

“[Thủ tướng Anh Keir] Starmer khen thưởng cho hành động khủng bố tàn bạo của Hamas và trừng phạt các nạn nhân của nó”, Netanyahu cho biết trong một bài đăng trên X.

Ông nói thêm: “Một quốc gia thánh chiến ở biên giới Israel HÔM NAY sẽ đe dọa nước Anh NGÀY MAI.

“Việc xoa dịu những kẻ khủng bố thánh chiến luôn thất bại. Nó cũng sẽ thất bại với các bạn. Điều đó sẽ không xảy ra.”

Trong khi Starmer tuyên bố Hamas phải giải giáp, thả tất cả các con tin còn lại và chấp nhận rằng họ không thể tham gia vào chính phủ tương lai ở Gaza, hiện vẫn chưa rõ liệu Hamas có phải đáp ứng các điều kiện trước khi Vương quốc Anh công nhận nhà nước Palestine hay không.

Ông Donald Trump nói với các phóng viên rằng ông và Starmer “chưa bao giờ thảo luận” về vấn đề nhà nước Palestine trong chuyến thăm Scotland đầu tuần này và rằng ông cùng chính phủ của mình “không có quan điểm” về vấn đề này. Tuy nhiên, tổng thống cảnh báo rằng việc gây áp lực buộc Israel phải đạt được một giải pháp lâu dài có thể bị coi là một hành động mang lại lợi ích cho Hamas.

“ Bạn có thể lập luận rằng bạn đang thưởng cho mọi người, rằng bạn đang thưởng cho Hamas nếu bạn làm điều đó,” ông nói hôm thứ Ba. “Tôi không nghĩ họ nên được thưởng.”

[Politico: Palestinian statehood ‘rewards Hamas,’ US warns Keir Starmer]
 
Cảnh quan thế giới thay đổi: Thống kê cho thấy Anh, Pháp, Úc đang trở thành các quốc gia Hồi Giáo
VietCatholic Media
19:03 31/07/2025


1. Bản đồ hiển thị các quốc gia nơi các tín hữu Kitô không còn chiếm đa số

Dữ liệu mới từ Trung tâm nghiên cứu Pew cho thấy số lượng quốc gia có đa số người theo Kitô giáo đã giảm trong một thập niên qua.

Trong khi hầu hết các quốc gia vẫn có đa số dân theo Kitô giáo - với hơn một nửa dân số ở những quốc gia đó tự nhận là người theo Kitô giáo - thì đã có sự suy giảm trong thập niên qua - khi Vương quốc Anh, Pháp, Uruguay và Úc không còn nằm trong nhóm này nữa. Thậm chí, với đà tăng trưởng mạnh mẽ của dân số Hồi Giáo, trong số 4 quốc gia nói trên Anh, Pháp, và Úc có thể trở thành các quốc gia Hồi Giáo trong vài thập niên nữa.

Trước đây, vào năm 2010, tỷ lệ người theo Kitô giáo ở 4 quốc gia này lần lượt là 49%, 46%, 44% và 47%.

Uruguay là quốc gia duy nhất ở Mỹ Châu không có đa số dân theo Kitô giáo vào năm 2020, mặc dù Guiana thuộc Pháp là một tỉnh hải ngoại của Pháp nằm trên bờ biển đông bắc Nam Mỹ có đa số dân theo Kitô giáo.

Trung tâm nghiên cứu Pew đưa tin, hàng triệu người theo Kitô giáo trên toàn cầu đã bỏ đạo trong những năm gần đây, khiến số lượng người theo Kitô giáo ở nhiều quốc gia giảm trong thập niên qua. Một lý do khác là sinh suất của các Kitô Hữu quá nhỏ so với các nhóm khác, cụ thể là Hồi Giáo.

Những phát hiện của trung tâm cũng cho thấy sự gia tăng về số lượng các quốc gia có đa số dân cư không theo tôn giáo nào - với 10 quốc gia thuộc danh mục này vào năm 2020, nhiều hơn ba quốc gia so với năm 2010.

Nhìn chung, dữ liệu cho thấy 120 trong số 201 quốc gia và vùng lãnh thổ được nghiên cứu có đa số dân theo Kitô giáo vào năm 2020, ít hơn bốn quốc gia so với năm 2010.

David Voas, giáo sư khoa học xã hội tại Đại học Luân Đôn, phát biểu với Newsweek rằng lý do Anh, Pháp, Uruguay và Úc không còn đa số theo Kitô giáo là do “quá trình ly khai tôn giáo kéo dài và dần dần đã diễn ra trong nhiều thập niên”.

“ Khi những người lớn tuổi và sùng đạo hơn qua đời, họ sẽ được thay thế trong dân số bởi những người trẻ tuổi và ít sùng đạo hơn”.

Voas cho biết cũng có “một số người bỏ đạo khi trưởng thành”, nhưng thông thường sự thay đổi lớn nhất xảy ra “giữa các thế hệ chứ không phải trong cùng một thế hệ”.

Nói rộng hơn, nhiều quốc gia có đa số dân theo Kitô giáo đã chứng kiến “sự suy giảm về tỷ lệ dân số tự nhận mình là người theo Kitô giáo”, Paul Seabright, giáo sư kinh tế tại Đại học Toulouse Capitole, Pháp, phát biểu với Newsweek.

Seabright cho biết một nguyên nhân khác là sự gia tăng tình trạng không có con, có hai tác động - thứ nhất, ít trẻ em được sinh ra từ cha mẹ theo Kitô giáo hơn và thứ hai, các cặp vợ chồng không có con và những người trẻ tuổi độc thân ít có khả năng tham gia các nhà thờ Kitô Giáo hơn so với các cặp vợ chồng có con.

Ông nói thêm rằng có thể có những biến thể từ xu hướng này vì “một số người trẻ hiện chưa có con, đặc biệt là Thế hệ Z, có khả năng sẽ trở nên sùng đạo hơn khi họ có con”.

Ông cho biết công nghệ cũng có thể có tác động, vì những người còn là thanh thiếu niên khi iPhone ra mắt vào năm 2007 giờ sẽ bước vào độ tuổi 30 và “mới bắt đầu vật lộn với những thách thức của việc lập gia đình”.

Ông cho biết: “Điều này sẽ giúp nhiều người thoát khỏi thế giới ảo để hòa nhập vào cộng đồng thực tế hơn”.

Một yếu tố khác, theo Seabright, là “ở nhiều quốc gia, các nhà thờ Kitô giáo gắn liền với giới cầm quyền bảo thủ, điều này dần làm xói mòn tính chính danh của họ, đặc biệt là ở những quốc gia mà Giáo hội ủng hộ các chế độ cực kỳ bảo thủ hoặc độc tài. Ví dụ bao gồm Tây Ban Nha và Chí Lợi, nhưng cũng có ở Ireland, Anh và Đức.”

Ngoài ra, “những vụ tai tiếng về lạm dụng tình dục, thể chất và tài chính đã dẫn đến một số lượng lớn người rời khỏi Giáo Hội, ví dụ như ở Đức, Pháp, Ái Nhĩ Lan, Hoa Kỳ”

Seabright cảnh báo rằng tội lỗi lạm dụng tình dục trong Giáo Hội đã bị khuếch đại bởi các thế lực chống Giáo Hội Công Giáo và cả một số Giám Mục Đức, những người thường được gắn mác là “lạm dụng lạm dụng”. Tức là họ lạm dụng tình trạng lạm dụng như một chiêu bài cổ suý cho các chương trình nghị sự cấp tiến của họ. Seabright cho biết Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã rất đúng và chính xác khi nói rằng “tội lỗi lạm dụng tình dục xảy ra chủ yếu trong bối cảnh gia đình.”


Source:Newsweek

2. Nhật ký trừ tà #354: Làm im lặng kẻ tố cáo vĩ đại*

Đức Ông Stephen Rossetti, Nhà Trừ Tà của giáo phận Syracuse, phó giáo sư nghiên cứu tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ vừa có bài viết nhan đề “Exorcist Diary #354: Silencing the Great Accuser*”, nghĩa là “Nhật ký trừ tà #354: Làm im lặng kẻ tố cáo vĩ đại*”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Là con người sau sự sa ngã của A-đam và Ê-va, tất cả chúng ta đều trải qua những khiếm khuyết còn sót lại của nhân tính sa ngã. Ví dụ, tất cả chúng ta đều bị bệnh; chúng ta bị những đam mê rối loạn; trí tuệ chúng ta bị lu mờ; và trạng thái tinh thần của chúng ta không còn hoàn toàn khỏe mạnh và thánh thiện nữa. Điều này không hề xảy ra trước khi A-đam và Ê-va sa ngã.

Một hậu quả tiêu cực của sự Sa Ngã là một cảm nhận rối loạn về bản thân: chúng ta dễ bị tổn thương bởi lòng tự trọng thấp, hoặc biểu hiện dường như trái ngược của nó là tính tự luyến (thực ra chỉ là một lớp vỏ bọc giả tạo che đậy hình ảnh bản thân đã bị tổn thương này). Satan biết rõ sự yếu đuối của chúng ta. Hắn sẽ lợi dụng nó bất cứ khi nào có thể. Lũ tay sai của hắn âm thầm tấn công chúng ta bằng những suy nghĩ tự hạ thấp bản thân, hy vọng dẫn chúng ta đến một trong những trạng thái ưa thích của hắn: là tuyệt vọng. Hắn là “kẻ tố cáo lớn” (Khải Huyền 12:10).

Làm sao chúng ta biết được những lời tự vấn tiêu cực trong đầu mình đang được tiếp sức bởi Kẻ Tố Cáo Vĩ Đại (tức là những ám ảnh ma quỷ)? Một số dấu hiệu rõ ràng là: những suy nghĩ tiêu cực xuất hiện khá đột ngột; chúng dữ dội một cách bất thường; chúng phóng đại thực tế; chúng cám dỗ tâm hồn đến tuyệt vọng. Một số hoặc tất cả chúng có thể tan biến khi được đáp lại bằng lời cầu nguyện.

Sau đây là ba bước sẽ giúp ích nếu những suy nghĩ trong đầu bạn đang bị Satan phóng đại, tức là chúng là nỗi ám ảnh của ma quỷ:

Thứ nhất. Nhận ra sự hiện diện của Satan và “loại bỏ” những suy nghĩ tiêu cực mạnh mẽ này. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng những suy nghĩ dày vò này không phải của bạn; chúng đến từ Satan.

Thứ hai. Hãy thẳng thắn từ chối chúng, tốt nhất là nói to, nói ba chữ R: “Nhân danh Chúa Giêsu, tôi từ chối chúng; tôi khiển trách chúng; tôi từ bỏ chúng; và tôi đuổi chúng ra.” Bạn có thẩm quyền đối với cơ thể và tâm trí của mình, vậy hãy ra lệnh cho Satan rời đi!

Thứ ba. Hãy chào đón Thiên Chúa, Đấng yêu thương và tha thứ cho bạn. Hãy thưa: “Lạy Chúa Giêsu, con là kẻ tội lỗi, nhưng Chúa yêu thương con, Chúa tha thứ cho con, Chúa ban cho con sự bình an của Chúa.”

Điều nguy hiểm nhất của những ám ảnh ma quỷ là Ác Quỷ ẩn mình nên người ta không nhận ra nguồn gốc tội lỗi của mình. Người ta có thể tin rằng mình có khiếm khuyết khủng khiếp và sẽ mãi mãi bị dày vò. Đáng buồn thay, tôi tin rằng không ít linh hồn đã rơi vào cái bẫy này và bị cám dỗ kết liễu cuộc đời. Khi linh hồn nhận ra và chấp nhận hành động của Satan, rồi từ chối và trục xuất hắn, những đau khổ của Satan thường giảm bớt, nếu không muốn nói là hoàn toàn im lặng.

Linh hồn nên thường xuyên đặt nền tảng trên những chân lý căn bản của Kitô giáo: Satan là bụi đất. Chúa Giêsu là Chúa. Chúa Giêsu yêu thương tôi và tha thứ cho tôi. Thiên Chúa cho phép Satan cám dỗ và quấy nhiễu tôi trong cuộc đời này, giống như chính Chúa Giêsu đã chịu đau khổ và chết. Nhưng Thiên Chúa sẽ ban cho tôi sức mạnh để kiên trì. Những cám dỗ này được phép xảy ra để tôi được thánh hóa - tôi được chia sẻ những đau khổ của Chúa Kitô.

Tôi rất tiếc khi bất kỳ ai trong số anh chị em phải chịu đựng những đau khổ về tinh thần. Đáng buồn thay, đó là hậu quả của tội nguyên tổ, sau đó bị Satan lợi dụng và khuếch đại. Nhưng Chúa đã mang lại ân sủng từ đau khổ, cũng như Ngài đã mang lại sự sống mới của sự phục sinh từ thập giá của Chúa Giêsu. Hãy tiếp tục cuộc chiến đấu tốt đẹp! Thế giới cần các bạn; đạo quân của Chúa cần anh chị em. Anh chị em có giá trị vô hạn trong mắt Chúa, và đó là tất cả những gì quan trọng.


Source:Catholic Exorcism

3. Đức Giáo Hoàng: Người di cư là “nhân chứng của hy vọng” trong một thế giới bị tàn phá

Trong Sứ điệp nhân Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn lần thứ 111, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV nhấn mạnh đến chứng tá quan trọng mà những người di cư và tị nạn Công Giáo có thể mang đến trong một thế giới bị ảnh hưởng bởi xung đột và bất bình đẳng khi tiếp tục hy vọng và tìm kiếm một tương lai tốt đẹp và hòa bình hơn.

Đức Giáo Hoàng Lêô XIV nhấn mạnh cách thức người di cư và người tị nạn có thể trở thành chứng nhân của hy vọng và sự kiên trì trong nghịch cảnh một cách đặc biệt và kêu gọi một tương lai hòa bình và tôn trọng nhân phẩm con người, trong Thông điệp nhân Ngày Thế giới Người di cư và Người tị nạn lần thứ 111, được công bố vào thứ sáu, ngày 25 tháng 7.

Năm nay, thay vì được tổ chức vào ngày 24 tháng 9 như thường lệ, Ngày Thế giới Di dân và Truyền giáo sẽ trùng với Năm Thánh Di dân và Truyền giáo, diễn ra vào ngày 4 và 5 tháng 10. Sự kiện thường niên này khuyến khích các tín hữu thể hiện sự ủng hộ và gần gũi với hàng triệu người buộc phải rời bỏ nhà cửa và quê hương. Theo Liên Hiệp Quốc, vào cuối năm 2024, khoảng 123,4 triệu người trên toàn thế giới đã phải di dời do bị đàn áp, xung đột, bạo lực hoặc các vấn đề khác.

Mong muốn hòa bình là điều cần thiết cho nhân loại

Đức Giáo Hoàng Lêô XIV bắt đầu Thông điệp của mình bằng cách nhấn mạnh rằng thế giới đang “phải đối mặt với những kịch bản đáng sợ và khả năng tàn phá toàn cầu”.

Ngài giải thích: “Viễn cảnh về một cuộc chạy đua vũ trang mới và sự phát triển của các loại vũ khí mới, bao gồm vũ khí hạt nhân, việc thiếu cân nhắc đến những tác hại của cuộc khủng hoảng khí hậu đang diễn ra và tác động của bất bình đẳng kinh tế sâu sắc khiến những thách thức của hiện tại và tương lai ngày càng trở nên khó khăn hơn”, đồng thời cho biết thêm rằng những vấn đề này đã buộc hàng triệu người phải rời bỏ quê hương của họ.

Ngài cũng chỉ ra rằng “xu hướng phổ biến” khi nhìn vào “lợi ích của các cộng đồng hạn chế” gây ra mối đe dọa đối với việc chia sẻ “trách nhiệm, hợp tác đa phương, theo đuổi lợi ích chung và đoàn kết toàn cầu”.

Đối với Đức Giáo Hoàng Lêô, “điều quan trọng là phải có một khát vọng ngày càng lớn mạnh trong lòng mọi người về một tương lai hòa bình và tôn trọng phẩm giá của tất cả mọi người”. Ngài nhấn mạnh rằng “một tương lai như vậy là thiết yếu cho kế hoạch của Thiên Chúa dành cho nhân loại và toàn thể tạo vật”, trích dẫn những đoạn trong sách Zechariah trong Kinh Thánh, nhấn mạnh rằng, với tư cách là Kitô hữu, “chúng ta tin tưởng và hy vọng vào sự thành tựu trọn vẹn của kế hoạch đó, vì Chúa luôn trung tín với những lời hứa của Ngài”.

Người di cư và người tị nạn, những nhân chứng của hy vọng qua câu chuyện của họ

Đức Giáo Hoàng giải thích rằng người di cư và người tị nạn do đó có một vai trò quan trọng trong việc thể hiện niềm hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Đối với Giáo Hội Công Giáo, “nhân đức hy vọng đáp lại khát vọng hạnh phúc mà Thiên Chúa đã đặt để trong trái tim mỗi người nam nữ”; và sự tìm kiếm này “chắc chắn là một trong những động lực chính” của người di cư, người tị nạn và người di tản, biến họ thành “những sứ giả” và “những chứng nhân đặc ân của hy vọng”.

“Thật vậy, họ thể hiện điều này hàng ngày thông qua khả năng phục hồi và niềm tin vào Chúa, khi họ đối mặt với nghịch cảnh trong khi tìm kiếm một tương lai mà họ thoáng thấy rằng sự phát triển toàn diện của con người và hạnh phúc là điều có thể”, ngài nói, khi so sánh với kinh nghiệm của người dân Israel được mô tả trong Kinh thánh.

“ Trong một thế giới tăm tối bởi chiến tranh và bất công, ngay cả khi mọi thứ dường như đã mất, lòng dũng cảm và sự kiên trì của họ là minh chứng anh hùng cho một đức tin nhìn xa hơn những gì mắt chúng ta có thể thấy và cho họ sức mạnh để thách thức cái chết trên nhiều tuyến đường di cư đương đại”.

Tầm quan trọng của việc chào đón người di cư

Đồng thời, Đức Giáo Hoàng Lêô giải thích rằng các cộng đồng chào đón người di cư và người tị nạn cũng có thể là “một chứng nhân sống động cho hy vọng” khi họ thể hiện “lời hứa về một hiện tại và tương lai, nơi mà phẩm giá của tất cả mọi người là con cái của Thiên Chúa được công nhận”.

“Theo cách này, người di cư và người tị nạn được công nhận là anh chị em, là một phần của gia đình mà họ có thể thể hiện tài năng của mình và tham gia đầy đủ vào đời sống cộng đồng”, ngài nói.

Người di cư và người tị nạn Công Giáo có thể hồi sinh Giáo hội

Trên bình diện tâm linh, Đức Giáo Hoàng Lêô nhấn mạnh rằng người di cư và người tị nạn cũng nhắc nhở Giáo hội “về chiều kích hành hương của mình, luôn hành trình hướng về quê hương cuối cùng, được nâng đỡ bởi niềm hy vọng, một nhân đức đối thần”. Ngài khuyến khích Giáo hội và các thành viên hãy là “dân Thiên Chúa đang hành trình hướng về quê hương thiên quốc” và tránh xa “cám dỗ của sự ‘định cư’” và trở thành “của thế gian”.

Về vấn đề này, Đức Giáo Hoàng tin rằng những người di cư và tị nạn Công Giáo có sứ mệnh đặc biệt là trở thành “những nhà truyền giáo hy vọng tại các quốc gia chào đón họ, mở ra những con đường đức tin mới ở những nơi sứ điệp của Chúa Giêsu Kitô chưa đến hoặc khởi xướng đối thoại liên tôn dựa trên cuộc sống hàng ngày và tìm kiếm các giá trị chung”.

“Đây là một missio migrantium đích thực, một sứ mệnh do người di cư thực hiện, trong đó cần phải bảo đảm sự chuẩn bị đầy đủ và hỗ trợ liên tục thông qua sự hợp tác liên giáo hội hiệu quả”, ngài nói.

“Với lòng nhiệt thành và sức sống thiêng liêng của họ, họ có thể giúp hồi sinh các cộng đồng giáo hội đang trở nên cứng nhắc và trì trệ, nơi mà sự sa mạc hóa thiêng liêng đang diễn ra với tốc độ đáng báo động”, ngài nói. “Vì vậy, sự hiện diện của họ nên được nhìn nhận và trân trọng như một phước lành thiêng liêng đích thực, một cơ hội để mở lòng đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, Đấng ban năng lượng và hy vọng mới cho Giáo hội của Người”.


Source:Vatican News

4. Tổng giám mục York của Anh Giáo đưa ra tuyên bố về Gaza trong tình hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo

Tổng giám mục York Stephen Cottrell đã đưa ra tuyên bố sau đây về tình hình ở Gaza vào ngày 27 tháng 7.

Mỗi ngày trôi qua ở Gaza, bạo lực, nạn đói và sự phi nhân tính mà chính phủ Israel gây ra cho dân thường ngày càng trở nên đồi trụy và vô lương tâm. Nhân danh Chúa, tôi lên án hành động tàn bạo này, xâm phạm mạng sống và nhân phẩm con người. Đây là một vết nhơ trong lương tâm cộng đồng quốc tế, và là một sự vi phạm trắng trợn luật nhân đạo quốc tế.

Tuyên bố tuần này của Anh và 27 quốc gia khác lên án việc từ chối viện trợ và hành vi giết hại dân thường vô nhân đạo tại các trạm cứu trợ là một dấu hiệu quan trọng - dù đã quá trễ từ lâu - cho thấy quyết tâm ngày càng tăng của cộng đồng quốc tế nhằm chấm dứt cuộc chiến này. Tuy nhiên, mặc dù nhóm này đã tuyên bố sẵn sàng hành động tiếp, nhưng không còn thời gian để chờ đợi. Cần phải hành động ngay bây giờ để chấm dứt cuộc tấn công đang diễn ra vào Gaza, chấm dứt việc xây dựng thị trấn và bạo lực của người định cư Do Thái ở Bờ Tây, đồng thời bảo đảm đàm phán cho một nền hòa bình lâu dài và công bằng.

Lời cầu nguyện của tôi vẫn hướng về cộng đồng Kitô hữu kiên cường và đau khổ tại Lãnh thổ Palestine bị tạm chiếm, đặc biệt là ở Gaza, sau vụ tấn công đẫm máu gần đây vào Nhà thờ Công Giáo Thánh Gia. Tôi bày tỏ tình đoàn kết mục vụ với các Thượng phụ Latinh và Hy Lạp tại Giêrusalem, và cảm tạ chuyến viếng thăm gần đây của các ngài đến Gaza. Không có lý do gì để biện minh cho việc ném bom các địa điểm thờ phượng, nơi những người tuyệt vọng đang trú ẩn, hay các bệnh viện, nơi những người bệnh và người bị thương đang được chăm sóc. Tôi xin lặp lại lời của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV và nói rõ rằng hành động man rợ này phải chấm dứt.

Cùng với các anh chị em giám mục trong Giáo hội Anh, tôi đã nhiều lần lên án các cuộc tấn công kinh hoàng của Hamas vào ngày 7 tháng 10, và tôi tiếp tục kêu gọi trả tự do cho những người vẫn đang bị giam giữ một cách tàn bạo. Chúng tôi lên án mọi cuộc tấn công nhắm vào người vô tội. Nhưng như chúng tôi đã nói vào tháng 5 năm nay, cuộc chiến này giờ đây là một cuộc xâm lược - đó là một tội lỗi nghiêm trọng và nó phải chấm dứt.

Tuần trước, Đức Tổng Giám Mục Anh giáo tại Giêrusalem, Đức Cha Hosam Naoum, đã có bài phát biểu hùng hồn tại Thượng Hội đồng Giáo hội Anh giáo ở York. Tôi ủng hộ Đức Tổng Giám Mục Hosam trong việc kêu gọi một lệnh ngừng bắn ngay lập tức và vĩnh viễn, trả tự do cho tất cả các con tin và tù nhân, và tái thiết Gaza. Tôi ủng hộ ngài trong việc bác bỏ bất kỳ chính sách nào có thể dẫn đến việc thanh trừng sắc tộc người Palestine khỏi Gaza. Nhân danh Chúa Giêsu Kitô, tôi khuyến khích các giáo phận và giáo xứ tiếp tục cầu nguyện cho các chị em Anh giáo Palestine và tất cả các cộng đồng Kitô giáo khác – và cho an ninh, tự do và phẩm giá của người Palestine, người Israel và tất cả các dân tộc trong khu vực.

Stephen Cottrell, tổng giám mục York


Source:Episcopal new sservice