1. “Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá” (1 Cr 1,23).

Bằng những lời này của Thánh Phaolô Tông đồ, hôm nay Hội Thánh Rôma xin chào Hội Thánh tại Việt Nam, dù xa xôi về địa lý, vẫn rất gần gũi với trái tim chúng tôi; đồng thời, xin chào toàn thể dân tộc Việt Nam, và với tất cả lòng quý mến, xin cầu chúc quý quốc được mọi sự tốt lành.

Tâm tưởng đầu tiên, thân tình và quý mến của tôi, xin dành cho người anh em thân yêu, Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn, Tổng giám mục Hà Nội, cùng tất cả Giám mục đoàn của Hội Thánh Việt Nam mà trong lúc này, tôi cảm nhận các ngài đang quy tụ cách thiêng liêng chung quanh tôi. Cùng với các ngài, tôi chào các linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân đang dấn thân trong hoạt động truyền giáo, tất cả các tín hữu Kitô tại Việt Nam, trong lúc này tôi cảm thấy gần gũi họ cách đặc biệt và sâu xa.

Tôi cũng muốn chào các anh em thân yêu trong hàng Giám mục đến cùng các nhóm tín hữu thuộc Tây Ban Nha, Pháp, Philippines, những xứ sở mà trong ba thế kỷ đã liên kết với việc truyền bá Tin Mừng tại Việt Nam. Họ đang ở đây để tưởng nhớ biết bao người anh em là những thừa sai xuất xứ từ quê hương mình.

Ngoài ra, tôi gửi lời chào đến các cha Đaminh thuộc tỉnh dòng Rất Thánh Mân Côi, được thành lập cách đây 400 năm, và đến Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris; trong số các giám mục và linh mục mà hôm nay chúng ta tôn kính như các vị tử đạo vì đức tin và rao giảng Tin Mừng, có nhiều người thuộc về hai gia đình tu trì trên.

2. Trong cộng đoàn lớn lao của Hội Thánh, cách đặc biệt tôi xin chào các anh chị em Việt Nam thân yêu đến từ khắp nơi trên thế giới, từ châu Mỹ và châu Á, từ châu Úc và tất cả các quốc gia thuộc châu Âu. Tôi biết anh chị em vui mừng phấn khởi vì ước mong tôn vinh các vị tử đạo đồng hương, nhưng còn vì khi quây quần để tưởng nhớ các vị tử đạo, anh chị em cảm nhận nhu cầu xây dựng lại tình huynh đệ, tình bằng hữu, tình thân ái đang tràn ngập trong tâm hồn do bởi tất cả anh chị em đều có chung một quê hương. Trong khi sống lại ký ức về các ngài, anh chị em hướng về quê hương mình bằng tình yêu, sự nhung nhớ, và ước mong được sống một khoảnh khắc hiệp thông chứa chan hi vọng, trong lúc còn sống trong cảnh xa quê. Cùng với anh chị em, chúng tôi loan báo Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá, hôm nay chúng tôi muốn tạ ơn Thiên Chúa vì chứng từ đặc biệt mà các vị tử đạo trong Hội Thánh của anh chị em đã cống hiến, dù phần đông các ngài là con dân Việt Nam, hay là các vị thừa sai đến từ các quốc gia nơi đó niềm tin vào Đức Kitô đã được cắm rễ sâu.

Truyền thống của anh chị em nhắc chúng ta nhớ rằng lịch sử tử đạo của Hội Thánh Việt Nam từ khởi đầu đã rất phong phú và phức tạp. Từ năm 1533, nghĩa là từ lúc khởi đầu việc rao giảng Kitô giáo tại Đông Nam Á, trong suốt ba thế kỷ, Hội Thánh tại Việt Nam đã phải chịu những cuộc bách hại khác nhau, nối tiếp nhau, có đôi lúc ngưng nghỉ, như những gì đã xảy ra cho Hội Thánh phương Tây trong ba thế kỷ đầu tiên. Hàng ngàn Kitô hữu phải chịu chết vì Đạo, và rất đông là những người phải chết trên núi, trong rừng, nơi những miền đất độc hại họ bị lưu đày.

Làm sao kể lại cho hết? Cho dẫu chúng ta chỉ tự giới hạn trong số các vị được tuyên thánh hôm nay thôi, cũng không thể kể ra từng vị. Tất cả là 117 vị, trong đó có 8 giám mục, 50 linh mục, 59 giáo dân và trong số giáo dân, có một phụ nữ là Anê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người con.

Chỉ cần nhắc đến một hoặc hai khuôn mặt là đủ, chẳng hạn cha Vinh Sơn Liêm, dòng Đaminh, chịu tử đạo năm 1773; ngài là vị tử đạo đầu tiên trong số 96 vị tử đạo người Việt Nam. Rồi tới một linh mục khác, cha Anrê Dũng Lạc, có cha mẹ là người ngoại đạo, rất nghèo; từ nhỏ đã được gửi cho một thầy giảng, trở thành linh mục năm 1823, là cha xứ và nhà truyền giáo ở nhiều nơi trong đất nước. Hơn một lần, ngài đã được thoát cảnh tù tội nhờ các tín hữu quảng đại đem tiền chuộc về, nhưng ngài ao ước được chết vì Đạo cách mãnh liệt. Ngài nói: “Ai chết vì đức tin sẽ được lên trời; ngược lại, chúng ta cứ phải trốn tránh liên tục, tiêu tốn tiền bạc để đút lót những kẻ bách hại! Sẽ tốt hơn nhiều nếu cứ để chúng tôi bị bắt và chết”. Được nâng đỡ nhờ lòng nhiệt thành lớn lao và nhờ ơn Chúa, ngài đã chịu trảm quyết tại Hà Nội ngày 21 tháng 12 năm 1839.

3. Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta những lời Đức Kitô Giêsu đã loan báo cho các môn đệ Người về những cuộc bách hại họ sẽ phải chịu: “Hãy coi chừng người đời vì họ sẽ đưa anh em ra công đường và đánh đập anh em trong các hội đường của họ; anh em sẽ bị điệu ra trước vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại biết” (Mt 10,17-18). Chúa Giêsu đã nói với các Tông đồ và môn đệ của Người ở mọi thời; Người đã nói rất thẳng thắn! Người không thu hút các ông bằng những lời hứa hẹn giả dối nhưng bằng chân lý trọn vẹn, vốn luôn là đặc trưng trong các lời của Người, Người đã chuẩn bị cho các ông trước những nguy hiểm: “Anh sẽ nộp em cho người ta giết, cha sẽ nộp con, con cái đứng lên tố cáo cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, chúng con sẽ bị mọi người ghét bỏ, nhưng ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ” (Mt 10,21-22).

4. Tuy nhiên, Thầy chí thánh đã không bỏ rơi các môn đệ và các tín hữu của Người trong những cơn bách hại nặng nề: “Khi người ta nộp anh em, đừng lo phải nói gì; vì không phải anh em nói nhưng Thần Khí của Cha anh em sẽ nói cho anh em” (Mt 10,19-20).

Thánh Thần, Thần chân lý, Ngài sẽ là sức mạnh thay cho sự yếu đuối của anh em. Anh em sẽ làm chứng bằng sức mạnh của Ngài. Chính sự kiện anh em phải làm chứng cho Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá, lại chẳng cần đến sự khôn ngoan và sức mạnh vượt trên sức mạnh loài người sao? Khi Thánh Tông đồ viết rằng thập giá “là sự ô nhục đối với người Do Thái và điên rồ đối với người Hi Lạp” (1Cr 1,23), lại chẳng phải là nói về Đức Kitô sao? Đã xảy ra như thế vào thời các Tông đồ. Cũng lặp lại như thế trong những thời kỳ khác nhau của lịch sử, ở những nơi chốn và thời điểm khác nhau. Cũng xảy ra như thế vào thời bách hại tôn giáo chống lại các Kitô hữu Việt Nam.

Do đó, cần phải có sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa để loan báo mầu nhiệm tình yêu này của Thiên Chúa, nghĩa là ơn cứu chuộc trần gian nhờ thập giá: mầu nhiệm vĩ đại nhất, đồng thời là điều không thể hiểu được về mặt nhân loại. “Bởi vì cái điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn sự khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn sức mạnh loài người” (1Cr 1,25). Chính vì thế Thánh Tông đồ viết: “Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá”: Đức Kitô mà cụ thể trong mầu nhiệm Vượt Qua của Người, chính là “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,23-24).

5. Như thế, trước mặt chúng ta hôm nay là các vị tử đạo Việt Nam, những thợ gặt của Thiên Chúa mà Thánh vịnh nói tới: “Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. Họ ra đi trong than khóc, mang theo mình hạt giống; trở về trong hân hoan, mang theo gánh lúa vàng” (Tv 126,5-6).

Trong ánh sáng của những lời huyền nhiệm này, chúng ta hiểu được ý nghĩa đích thực của những chứng tá lịch sử nơi các vị tử đạo của Hội Thánh Việt Nam. Với nước mắt của các ngài, bao hạt giống Tin Mừng và ân sủng đã được gieo, từ đó trổ sinh thật phong phú ân huệ đức tin: “Hạt giống gieo vào lòng đất mà không chết đi thì chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, sẽ sinh nhiều bông hạt” (Ga 12,24).

Các vị tử đạo Việt Nam “đã gieo trong nước mắt”, trong thực tế các ngài đã khởi xướng một cuộc đối thoại sâu sắc và mang tính giải thoát với người dân và nền văn hóa của dân tộc họ, trước hết bằng cách loan báo chân lý và tính phổ quát của niềm tin vào Thiên Chúa, ngoài ra còn đề nghị một phẩm trật các giá trị và bổn phận phù hợp cách đặc biệt với nền văn hóa tôn giáo của tất cả thế giới Đông phương. Theo sự hướng dẫn của Sách Giáo lý đầu tiên bằng tiếng Việt, các ngài đã làm chứng cho sự kiện là phải tôn thờ một Thiên Chúa mà thôi, là Đấng Thiên Chúa duy nhất đã dựng nên trời đất. Đối diện với những thái độ áp bức của nhà cầm quyền về việc thực hành đức tin, các ngài khẳng định sự tự do riêng của đức tin, (đồng thời) bằng sự can đảm khiêm nhu, các ngài bảo vệ lập trường rằng Đạo Kitô là chính nghĩa duy nhất mà các ngài không thể bỏ, bởi lẽ không thể không vâng lời Chúa là Đấng Tối cao. Ngoài ra, các ngài mạnh mẽ nói lên ý chí tôn trọng quyền bính trong nước, không đi ngược lại những gì là công chính và lương thiện; các ngài dạy phải tôn trọng và thờ kính Tổ tiên, theo cách thế của mỗi vùng miền, trong ánh sáng của mầu nhiệm Phục sinh. Cùng với các vị tử đạo của mình và qua chứng tá riêng, Hội Thánh Việt Nam có thể loan báo sự dấn thân và ý muốn của mình là không chối từ truyền thống văn hóa và những định chế hợp pháp trong xứ sở; trái lại, Hội Thánh đã tuyên bố và chứng tỏ rằng Hội Thánh muốn nhập thể trong truyền thống này, trung thành góp phần vào sự phát triển đích thực của đất nước.

Thế rồi, những xung đột và căng thẳng chính trị đã xuất hiện trong mối tương quan giữa các kitô hữu với nhà cầm quyền, với những quyền lợi của các tôn giáo khác, những lý do kinh tế và xã hội, sự hiểu lầm về tính siêu việt và phổ quát của đức tin, tất cả đã tạo nên thứ hỏa ngục trần gian, ở đó sự thanh khiết và sức mạnh của những chứng tá phi thường này được hiến dâng.

6. Nhưng chính từ đoàn rước đông đảo các vị tử đạo, từ những đau khổ của các ngài, từ nước mắt của các ngài, mà chúng ta có được “mùa lúa vàng của Chúa”. Là những bậc thầy của chúng ta, các ngài cho tôi cơ hội lớn lao để giới thiệu với toàn thể Hội Thánh sinh lực và sự vĩ đại của Hội Thánh Việt Nam: sức mạnh, sự kiên nhẫn, khả năng đối diện với mọi thứ khó khăn và loan báo Đức Kitô. Chúng ta tạ ơn Chúa vì những điều mà Thánh Thần làm phát sinh cách dồi dào giữa chúng ta!

Một lần nữa, chúng ta có thể nói rằng: với anh chị em, các kitô hữu Việt Nam, máu các vị tử đạo là suối nguồn ân sủng để thăng tiến trong đức tin. Nơi anh chị em, đức tin của cha ông chúng ta vẫn tiếp tục thông truyền đến các thế hệ mới. Đức tin này vẫn là nền tảng của sự kiên trì nơi tất cả những ai coi mình thực sự là người Việt Nam, trung thành với quê hương, đồng thời mong muốn tiếp tục là những môn đệ đích thực của Đức Kitô. Tất cả các kitô hữu đều biết rằng Tin Mừng kêu gọi phải tuân phục các thể chế loài người vì tình yêu đối với Thiên Chúa, làm điều thiện, cư xử như những người tự do, tôn trọng mọi người, yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa, tôn trọng nhà cầm quyền và các tổ chức công cộng (x. 1Pr 2,13-17). Do đó, việc tìm kiếm công ích của đất nước là một bổn phận chân thành đối với người công dân là kitô hữu, trong sự tự do loan báo chân lý của Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với các mục tử và anh chị em trong đức tin, trong ước mong được sống hòa bình với những người khác để thành tâm xây dựng phúc lợi cho mọi người.

7. “Máu các Thánh Tử đạo là hạt giống sinh các Kitô hữu”. “Hạt giống sinh các Kitô hữu”. Ngoài hằng ngàn các tín hữu trong những thế kỷ qua đã bước theo cuộc khổ nạn của Đức Kitô, ngày nay còn có những người đang làm việc, nhiều khi là trong khắc khoải và hi sinh từ bỏ, với tham vọng duy nhất là có thể kiên trì làm việc trong vườn nho của Chúa, như những tôi tớ trung thành hiểu được phúc lành của Nước Thiên Chúa.

“Hạt giống sinh các Kitô hữu” còn là tất cả những ai ngày nay đang sống giữa dân của mình và vì chính nghĩa của Thiên Chúa, cố gắng hiểu ý nghĩa của Tin Mừng Đức Kitô và thập giá của Người, cùng với bổn phận làm việc và cầu nguyện cho Nước Cha trị đến trong mọi tâm hồn, nhất là trong xứ sở mà Chúa đã kêu gọi họ sống ở đó. Bổn phận này, hoạt động nội tâm liên lỉ và mạnh mẽ này đòi hỏi sự kiên nhẫn và lòng hi vọng tín thác nơi những người biết rằng sự quan phòng của Thiên Chúa hoạt động cùng với họ, để làm cho những nỗ lực cũng như những đau khổ của họ sinh hoa kết quả.

8. “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa” (Kn 3,1).

Sách Khôn Ngoan công bố chân lý huy hoàng này, tuôn đổ ngập tràn ánh sáng trên biến cố chúng ta cử hành hôm nay. Vâng, “Linh hồn người công chính ở trong tay Chúa và không hình khổ nào chạm tới được”. Xem ra những lời này không tương ứng với thực tế lịch sử: thật vậy, các vị tử đạo đã phải chịu cực hình, quá sức là đàng khác! Nhưng tác giả được linh ứng khai triển tư tưởng của mình rộng lớn hơn: “Những kẻ ngu muội nghĩ rằng các ngài đã chết rồi, coi sự ra đi của các ngài là điều vô phúc, việc các ngài rời bỏ chúng ta là sự tiêu diệt; thế nhưng các ngài ở trong bình an. Người đời cho rằng các ngài bị trừng phạt, nhưng niềm hi vọng nơi các ngài hướng đến sự bất tử” (Kn 3,2-4).

Các Thánh Tử đạo! Các Thánh Tử đạo Việt Nam! Các chứng nhân cho chiến thắng của Đức Kitô trên sự chết! Các chứng nhân cho ơn gọi con người hướng đến sự bất tử!

Sách Khôn Ngoan tiếp tục: “Hãy chịu khổ đôi chút; hãy đón nhận ân huệ lớn lao, vì Thiên Chúa đã thử thách các ngươi và thấy các ngươi xứng đáng với Ngài. Ngài thử thách các ngươi như thử vàng trong lò lửa, và đón nhận các ngươi như của lễ toàn thiêu” (x. Kn 3,5-6).

Vâng. Như của lễ toàn thiêu, kết hợp với hy tế thập giá của Đức Kitô. Thật vậy, cách riêng với các ngài, thưa Các Vị Tử đạo Việt Nam, các ngài đã loan báo đến cùng Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá, là sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng ta hướng về Đức Kitô, nhờ Người, chúng ta đạt đến ơn cứu độ của Thiên Chúa.

9. “Những ai trông cậy vào Người – vào Đức Kitô chịu đóng đinh Thập giá và Phục sinh – sẽ hiểu biết chân lý; những ai trung thành sẽ ở gần Người trong tình yêu, vì ân sủng và lòng thương xót được dành cho những ai Người tuyển chọn” (x. Kn 3,9).

Thưa Các Ngài là những vị được tử đạo! Thưa Các Ngài là những người được tuyển chọn!

Xin hãy nghe đến cùng điều mà Sách Khôn Ngoan nói về các ngài: “Trong ngày phán xét, họ sẽ rực sáng như những tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy” (Kn 3,7).

Như những tia lửa, như những ánh chớp của nguồn sáng chiếu soi rực rỡ… Xin hãy nghe đến cùng điều mà Sách Khôn Ngoan nói về các ngài: “Họ sẽ cai trị các dân tộc, hành quyền trên các dân và Chúa sẽ ngự trị trên họ đến muôn đời” (Kn 3,8).

Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá và phục sinh. Đấng đã đến trong thế gian, không phải để “xét xử thế gian, nhưng để nhờ Người mà thế gian được cứu độ” (Ga 3,17).

Đức Kitô ấy! Cũng như các ngài đã dự phần đau khổ và thập giá của Chúa, thì các ngài cũng dự phần vào ơn cứu độ thế giới mà Người đã thực hiện.

Nguyện cho mùa gặt của các ngài sẽ kéo dài trong hân hoan!

Quảng trường Thánh Phêrô, ngày 19-06-1988

Dịch từ nguyên bản tiếng Ý: Đức ông Vinhsơn Trần Ngọc Thụ