4. Người Nghèo, Những Nhân Vật Chính Trong Hành Trình Của Giáo Hội

Các điểm hội tụ



a) Những người sống trong cảnh nghèo xin tình yêu nơi Giáo hội. Yêu thương có nghĩa là tôn trọng, chấp nhận và công nhận, nếu không có điều đó thì việc cung cấp thực phẩm, tiền bạc hoặc các dịch vụ xã hội sẽ là những hình thức hỗ trợ chắc chắn quan trọng nhưng không tính đến phẩm giá con người một cách đầy đủ. Mỗi người cần được quyền xác định các phương tiện phát triển của riêng mình thay vì trở thành đối tượng cho hành động phúc lợi của người khác. Được công nhận và tôn trọng là những cách mạnh mẽ để thực hiện điều này.

b) Việc ưu tiên chọn người nghèo được hàm chứa trong đức tin Kitô học: Chúa Giêsu, nghèo và khiêm nhường, kết bạn với những người nghèo, ngồi chung bàn với họ và lên án các nguyên nhân gây ra nghèo đói. Đối với Giáo hội, việc ưu tiên chọn người nghèo và những người ở bên lề xã hội là một phạm trù thần học trước khi trở thành một phạm trù văn hóa, xã hội học, chính trị hoặc triết học. Đối với Thánh Gioan Phaolô II, Thiên Chúa ban lòng thương xót của Người trước hết cho họ. Sự ưu tiên thần thiêng này có những hậu quả đối với cuộc sống của mọi Kitô hữu, những người được kêu gọi nuôi dưỡng “có cùng một tâm trí… như Chúa Giêsu Kitô” (Pl 2:5).

c) Nghèo không phải chỉ có một loại. Trong số rất nhiều bộ mặt của những người nghèo khổ, có những người không có những thứ họ cần để có một cuộc sống xứng đáng. Ngoài ra còn có người di cư và người tị nạn; các dân tộc bản địa, các dân tộc nguyên gốc và hậu duệ Phi châu; những người phải chịu đựng bạo lực và lạm dụng, đặc biệt là phụ nữ; những người đang vật lộn với cơn nghiện; những nhóm thiểu số bị từ chối tiếng nói một cách có hệ thống; người già bị bỏ rơi; nạn nhân của nạn phân biệt chủng tộc, bóc lột và buôn bán, đặc biệt là trẻ vị thành niên; công nhân bị bóc lột; những người bị loại trừ về mặt kinh tế và những người khác sống ở vùng ngoại vi. Những người dễ bị tổn thương nhất trong số những người dễ bị tổn thương, mà việc tranh đấu cho họ cần phải liên tục, bao gồm các thai nhi và mẹ của các em. Phiên Họp lắng nghe tiếng kêu của “những người nghèo mới”, gây ra bởi chiến tranh và chủ nghĩa khủng bố đang hoành hành ở nhiều quốc gia trên nhiều châu lục, và Phiên Họp lên án các hệ thống chính trị và kinh tế thối nát gây ra xung đột như vậy.

d) Bên cạnh các hình thức nghèo khó vật chất, nhiều người còn phải chịu cảnh nghèo khó về tinh thần, được hiểu như thiếu ý thức về ý nghĩa cuộc sống. Sự bận tâm quá mức đến bản thân có thể dẫn đến việc coi người khác là mối đe dọa, một điều, ngược lại, khiến chúng ta ngày càng thu mình lại, nói lên một loại chủ nghĩa cá nhân nào đó. Khi những người nghèo về tinh thần và vật chất gặp nhau, họ bắt đầu cuộc hành trình hướng tới việc tìm kiếm câu trả lời cho nhu cầu của nhau. Đây là một cách cùng nhau đồng hành làm cho quan điểm của Giáo hội đồng nghị trở nên cụ thể, sẽ tiết lộ cho chúng ta ý nghĩa đầy đủ nhất về mối phúc của Tin Mừng, “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó” (Mt 5:3).

e) Đứng về phía người nghèo đòi hỏi việc cùng họ chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta: tiếng kêu của trái đất và tiếng kêu của những người sống trong nghèo đói là cùng một tiếng kêu. Việc thiếu những câu trả lời cho tiếng kêu này khiến cho cuộc khủng hoảng sinh thái và đặc biệt là biến đổi khí hậu trở thành mối đe dọa đối với sự sống còn của nhân loại. Tông huấn Laudate Deum, được Đức Giáo Hoàng Phanxicô công bố trùng với thời điểm khai mạc công việc của Thượng hội đồng, nhấn mạnh điều này. Giáo hội ở các quốc gia chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi hậu quả của biến đổi khí hậu nhận thức sâu sắc nhu cầu cấp thiết phải thay đổi hướng đi, và điều này thể hiện sự đóng góp của họ đối với hành trình của các giáo hội địa phương khác ở nhiều nơi trên hành tinh.

f) Cam kết của Giáo hội phải giải quyết các nguyên nhân gây ra nghèo đói và loại trừ. Điều này bao gồm các hành động bảo vệ quyền của những người bị loại trừ và điều này có thể yêu cầu tố cáo công khai những hành vi bất công, cho dù được gây ra bởi các cấu trúc xã hội hay bởi các cá nhân, tập đoàn hoặc chính phủ. Điều cần thiết để nghe được tiếng nói của những người nghèo là lắng nghe những yêu cầu và quan điểm của họ cũng như sử dụng chính lời nói của họ.

g) Các Kitô hữu có nhiệm vụ dấn thân tham gia tích cực vào việc xây dựng ích chung và bảo vệ phẩm giá sự sống, lấy cảm hứng từ học thuyết xã hội của Giáo hội và cùng nhau làm việc theo nhiều cách khác nhau, thông qua việc tham gia vào các tổ chức xã hội dân sự, nghiệp đoàn, phong trào quần chúng, hiệp hội cơ sở, trong lĩnh vực chính trị, v.v. Giáo Hội vô cùng biết ơn họ. Cộng đồng có nhiệm vụ hỗ trợ những người làm việc trong các lĩnh vực này với tinh thần bác ái và phục vụ chân chính. Hành động của họ là một phần trong sứ mệnh của Giáo hội nhằm loan báo Tin Mừng và làm cho Nước Thiên Chúa mau đến.

h) Cộng đồng Kitô gặp gỡ khuôn mặt và thân xác của Chúa Kitô, Đấng, tuy giàu có, đã trở nên nghèo khó vì chúng ta, để chúng ta có thể trở nên giàu có nhờ sự nghèo khó của Người (x. 2 Cr 8:9). Nó được kêu gọi không những gần gũi với họ mà còn học hỏi từ họ. Nếu trở thành đồng nghị có nghĩa là cùng bước đi với Đấng là Đường, thì một Giáo hội đồng nghị cần đặt những người đang trải qua cảnh nghèo khó vào trung tâm của mọi khía cạnh của đời sống mình: qua những đau khổ của họ, họ có được sự hiểu biết trực tiếp về Chúa Kitô đau khổ (x. Evangelii gaudium, số 198). Sự giống nhau về cuộc sống của họ với cuộc sống của Chúa khiến những người nghèo khó trở thành sứ giả của ơn cứu độ được đón nhận như một hồng ân và là những chứng nhân cho niềm vui của Tin Mừng.

Các vấn đề để xem xét

i) Ở một số nơi trên thế giới, Giáo hội khá nghèo, với những người nghèo và cho những người nghèo. Có một nguy cơ thường xuyên, cần phải cẩn thận tránh, là coi những người sống trong cảnh nghèo đói theo nghĩa “họ” và “chúng ta” như “đối tượng” của lòng bác ái của Giáo hội. Đặt những người trải qua cảnh nghèo đói làm trung tâm và học hỏi từ họ là điều mà Giáo hội ngày càng phải làm nhiều hơn nữa.

j) Một mặt, việc tố cáo mang tính tiên tri các tình trạng bất công và mặt khác các nỗ lực thu-yết phục các nhà hoạch định chính sách hành động vì lợi ích chung, một điều vốn đòi hỏi phải sử dụng đến biện pháp ngoại giao, phải được duy trì trong tình trạng căng thẳng năng động để không mất tập chú rõ ràng hoặc tính hữu hiệu. Đặc biệt, phải cẩn thận để bảo đảm rằng việc sử dụng công quỹ hoặc tư qũy của các cơ quan Giáo hội không hạn chế quyền tự do lên tiếng cho những đòi hỏi của Tin Mừng.

k) Việc cung cấp các dịch vụ trong các lĩnh vực giáo dục, chăm sóc sức khỏe và phúc lợi xã hội, không phân biệt đối xử hay loại trừ bất cứ ai, là dấu hiệu rõ ràng về một Giáo hội cổ vũ sự hội nhập và tham gia của những người dễ bị tổn thương nhất trong Giáo hội và xã hội. Các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này được khuyến khích coi mình như các biểu thức của cộng đồng Kitô hữu và tránh việc bác ái trở nên phi bản vị. Họ cũng được khuyến khích kết nối và phối hợp với những người khác.

l) Giáo hội phải trung thực trong việc xem xét cách thức đáp ứng các yêu cầu công lý giữa những người làm việc trong các định chế thống thuộc của mình để bảo đảm việc Giáo hội hành động một cách nhất quán và liêm chính.

m) Trong một Giáo hội đồng nghị, tình liên đới cũng được thể hiện dưới hình thức trao đổi ân phúc và chia sẻ nguồn lực giữa các giáo hội địa phương từ các khu vực khác nhau. Những mối liên hệ này thúc đẩy sự hiệp nhất của Giáo hội bằng cách tạo ra mối liên kết giữa các cộng đồng Kitô giáo có liên quan. Cần phải tập trung vào các điều kiện cần thiết để bảo đảm việc các linh mục đến trợ giúp các giáo hội đang cần giáo sĩ không chỉ cung cấp một giải pháp mang tính chức năng mà còn là nguồn lực cho sự phát triển của cả Giáo hội gửi họ đi và Giáo hội tiếp nhận họ đến. Tương tự như vậy, cần phải bảo đảm việc viện trợ kinh tế không biến thái thành việc cung cấp phúc lợi đơn thuần, mà còn cổ vũ tình liên đới Tin Mừng chân chính và được quản lý một cách minh bạch và đáng tin cậy.

Các đề nghị

n) Học thuyết xã hội của Giáo hội là một nguồn tài nguyên quá ít được biết đến. Điều này cần phải được giải quyết. Các giáo hội địa phương được mời gọi không những làm cho nội dung của nó được biết đến nhiều hơn mà còn thúc đẩy việc tiếp nhận nó thông qua các thực hành biến cảm hứng của nó thành hành động.

o) Kinh nghiệm gặp gỡ, chia sẻ đời sống chung và phục vụ những người sống trong cảnh nghèo khó và bên lề xã hội phải là một phần không thể thiếu trong mọi con đường đào tạo được các cộng đồng Kitô giáo cung ứng: đó là một yêu cầu của đức tin, không phải là một điều kiện tùy chọn phụ trội. Điều này đặc biệt đúng đối với các ứng viên của thừa tác vụ thụ phong và đời sống thánh hiến.

p) Là một phần của việc suy nghĩ lại thừa tác vụ phó tế, Giáo hội nên cổ vũ một khuynh hướng mạnh mẽ hơn hướng tới việc phục vụ người nghèo.

q) Giáo huấn, phụng vụ và thực hành của Giáo hội phải tích hợp một cách rõ ràng và cẩn thận hơn các nền tảng kinh thánh và thần học của hệ sinh thái toàn diện.

5. Một Giáo Hội “từ mọi chi tộc, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia”

Các điểm hội tụ

a) Các Kitô hữu sống trong những nền văn hóa chuyên biệt, mang Chúa Kitô đến với chúng trong Lời Chúa và Bí tích, dấn thân phục vụ bác ái với lòng khiêm nhường và niềm vui tươi, đón nhận mầu nhiệm Chúa Kitô đang chờ đợi chúng ta ở mọi nơi và mọi thời. Bằng cách này, chúng ta trở thành một Giáo hội chào đón mọi người từ “mọi chi tộc, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia” (Kh 5:9).

b) Các bối cảnh văn hóa, lịch sử và lục địa trong đó Giáo hội hiện diện cho thấy những nhu cầu tinh thần và vật chất khác nhau. Điều này định hình nền văn hóa của các giáo hội địa phương, các ưu tiên truyền giáo của họ, các mối quan tâm và ơn phúc mà mỗi giáo hội mang đến cho cuộc đối thoại đồng nghị, cũng như ngôn ngữ mà họ dùng để phát biểu bản thân. Trong những ngày của Phiên Họp, chúng tôi đã có thể trải nghiệm một cách trực tiếp và phần lớn hân hoan những cách diễn đạt đa dạng về việc là Giáo hội.

c) Các Giáo hội sống trong bối cảnh ngày càng đa văn hóa và đa tôn giáo. Điều này đòi hỏi phải tìm cách tạo ra cuộc đối thoại giữa các tôn giáo và văn hóa, mà với nó các Kitô hữu nên tham gia cùng với nhiều nhóm vốn tạo nên một xã hội. Sống sứ mệnh của Giáo hội trong những bối cảnh này đòi hỏi một phong cách hiện diện, phục vụ và rao giảng nhằm tìm cách xây dựng những nhịp cầu, vun trồng sự hiểu biết lẫn nhau và tham gia vào việc truyền giảng Tin Mừng biết đồng hành, lắng nghe và học hỏi. Trong Phiên Họp, hình ảnh “cởi giày” để vượt qua ngưỡng cửa gặp gỡ người khác vang lên như dấu hiệu của sự khiêm nhường và tôn trọng một không gian thiêng thiêng, trên nền tảng bình đẳng.

d) Việc di dân tái định hình các giáo hội địa phương như những cộng đồng đa văn hóa. Người di cư và người tị nạn, nhiều người mang vết thương của sự mất gốc, chiến tranh và bạo lực, thường trở thành nguồn đổi mới và sự phong phú cho các cộng đồng chào đón họ và cơ hội thiết lập các liên kết trực tiếp với các giáo hội ở xa về mặt địa lý. Trước những thái độ ngày càng thù địch đối với những người di cư, chúng ta được mời gọi thực hành sự chào đón cởi mở, đồng hành cùng họ trong việc xây dựng cuộc sống mới và xây dựng sự hiệp thông liên văn hóa đích thực giữa các dân tộc. Việc tôn trọng các truyền thống phụng vụ và thực hành tôn giáo của người di cư là một phần không thể thiếu của việc chào đón chân chính.

e) Các nhà truyền giáo đã cống hiến cuộc đời mình để mang Tin Mừng đến cho toàn thế giới. Sự cam kết của họ là một bằng chứng tuyệt vời cho sức mạnh của Tin Mừng. Tuy nhiên, cần phải có sự chú ý và nhạy cảm đặc biệt trong những bối cảnh nơi “sứ mệnh” là một hạn từ chứa đầy những ký ức lịch sử đau thương cản trở sự hiệp thông ngày nay. Ở một số nơi, việc rao giảng Tin Mừng gắn liền với việc thuộc địa hóa, thậm chí là diệt chủng. Việc truyền giáo trong những bối cảnh này đòi hỏi phải thừa nhận những sai lầm đã mắc phải, học cách nhạy cảm mới đối với những vấn đề này và đồng hành cùng một thế hệ đang tìm cách tạo nên bản sắc Kitô giáo ngoài chủ nghĩa thực dân. Tôn trọng và khiêm tốn là những thái độ căn bản cần thiết để nhận ra rằng chúng ta bổ sung cho nhau và các cuộc gặp gỡ với các nền văn hóa khác nhau có thể làm phong phú thêm lối sống và suy nghĩ về đức tin của các cộng đồng Kitô giáo.

f) Giáo hội dạy về sự cần thiết và khuyến khích thực hành đối thoại liên tôn như một phần của việc xây dựng hiệp thông giữa mọi dân tộc. Trong một thế giới bạo lực và chia cắt, việc làm chứng càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết đối với sự hiệp nhất của nhân loại, nguồn gốc chung và vận mệnh chung của nó, trong một tình liên đới phối hợp và hỗ tương hướng tới công bằng xã hội, hòa bình, hòa giải và chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta. Giáo hội ý thức rằng Chúa Thánh Thần có thể nói qua những người nam cũng như nữ thuộc mọi tôn giáo, tín ngưỡng và văn hóa.

Các vấn đề để xem xét

g) Chúng ta cần trau dồi sự nhạy cảm hơn nữa đối với sự phong phú của những cách diễn đạt đa dạng về việc là Giáo hội của chúng ta. Điều này đòi hỏi phải tìm kiếm sự cân bằng năng động giữa chiều kích Giáo hội như một toàn thể và gốc gác địa phương của nó, giữa việc tôn trọng mối dây hiệp nhất của Giáo hội và nguy cơ đồng nhất hóa vốn bóp nghẹt sự đa dạng. Các ý nghĩa và ưu tiên khác nhau giữa các bối cảnh khác nhau và điều này đòi phải nhận diện và thúc đẩy các hình thức phân quyền.

h) Giáo hội cũng bị ảnh hưởng bởi sự phân cực và mất lòng tin trong các vấn đề quan trọng như đời sống phụng vụ và suy tư luân lý, xã hội và thần học. Chúng ta cần nhận ra các nguyên nhân của mỗi vấn đề thông qua đối thoại và thực hiện những tiến trình can đảm nhằm hồi sinh sự hiệp thông cũng như những tiến trình hòa giải để vượt qua chúng.

i) Trong các giáo hội địa phương của chúng ta, đôi khi chúng ta gặp phải những căng thẳng giữa những cách hiểu khác nhau về việc truyền giảng Tin Mừng: nhấn mạnh tới chứng tá cuộc sống, cam kết thăng tiến con người, đối thoại với các tín ngưỡng và các nền văn hóa, và minh nhiên công bố Tin Mừng. Tương tự, một sự căng thẳng xuất hiện giữa việc minh nhiên công bố về Chúa Giêsu Kitô và việc đánh giá cao những đặc điểm của mỗi nền văn hóa trong việc tìm kiếm những đặc điểm Tin Mừng (semina Verbi) mà nó vốn chứa đựng.

j) Sự nhầm lẫn có thể xảy ra giữa sứ điệp Tin Mừng và nền văn hóa của những người dấn thân vào việc truyền giảng Tin Mừng đã được đề cập như một trong những vấn đề cần được khám phá.

k) Gia tăng xung đột, với việc buôn bán và sử dụng các vũ khí ngày càng mạnh mẽ, tạo ra vấn đề, được nêu ra trong một số nhóm, phải suy tư và đào tạo nhiều hơn để chúng ta có thể quản lý các xung đột theo đường hướng bất bạo động. Đây là một sự đóng góp có giá trị mà các Kitô hữu có thể cống hiến cho thế giới ngày nay trong đối thoại và hợp tác với các tôn giáo khác.

Các đề nghị

l) Cần phải có sự chú ý mới đối với vấn đề ngôn ngữ mà chúng ta sử dụng để nói với tâm trí và trái tim của mọi người trong nhiều bối cảnh đa dạng theo cách vừa đẹp đẽ vừa dễ tiếp cận.

m) Chúng ta cần một khuôn khổ chung để quản lý và đánh giá các thử nghiệm bằng các hình thức tản quyền, nhận diện mọi tác nhân có liên hệ và vai trò của họ. Vì sự thống nhất, các tiến trình phân định liên quan đến việc tản quyền phải diễn ra theo phong cách đồng nghị, dự kiến sự đồng tình và đóng góp của tất cả các tác nhân liên quan ở các bình diện khác nhau.

n) Cần có những mô hình mới cho sự tham gia mục vụ với các dân tộc bản địa, dưới hình thức một hành trình chung chứ không phải một hành động được thực hiện cho họ hoặc vì họ. Sự tham gia của họ vào quá trình đưa ra quyết định ở mọi bình diện có thể góp phần tạo nên một Giáo hội sinh động và truyền giáo hơn.

o) Từ công việc của Phiên Họp, có lời kêu gọi hiểu biết tốt hơn về các giáo huấn của Vatican II, giáo huấn hậu công đồng và học thuyết xã hội của Giáo hội. Chúng ta cần biết rõ hơn các truyền thống khác nhau của mình để trở thành một Giáo hội của các Giáo hội một cách rõ ràng hơn trong hiệp thông, hữu hiệu trong việc phục vụ và đối thoại.

p) Trong một thế giới nơi số lượng người di cư và tị nạn ngày càng gia tăng trong khi sự sẵn sàng chào đón họ ngày càng giảm và là nơi người nước ngoài bị nhìn nhận với sự nghi ngờ ngày càng tăng, thật thích hợp để Giáo hội dấn thân một cách dứt khoát vào việc giáo dục, vào nền văn hóa đối thoại và gặp gỡ, chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và bài ngoại, đặc biệt thông qua việc đào tạo mục vụ. Tương tự, cần phải tham gia vào các dự án cụ thể để hòa nhập người di cư.

q) Chúng tôi khuyến nghị tiếp tục tham gia đối thoại và phân định liên quan đến công lý chủng tộc. Các hệ thống trong Giáo hội tạo ra hoặc duy trì sự bất công về chủng tộc cần phải được nhận diện và giải quyết. Cần phải tạo ra các tiến trình chữa lành và hòa giải, với sự giúp đỡ của những người bị tổn hại, để xóa bỏ tội phân biệt chủng tộc.

6. Các Giáo Hội Đông Phương và các Truyền Thống Giáo Hội Latinh

Các điểm hội tụ

a) Trong số các Giáo hội Đông phương, những Giáo Hội hiệp thông trọn vẹn với Người kế vị Thánh Phêrô có được sự khác biệt về phụng vụ, thần học, giáo hội học và giáo luật, làm phong phú thêm toàn thể Giáo hội. Đặc biệt, kinh nghiệm của họ về sự thống nhất trong đa dạng có thể đóng góp một cách có giá trị vào sự hiểu biết và thực hành tính đồng nghị.

b) Trong suốt lịch sử, mức độ tự trị được trao cho các Giáo hội này đã trải qua các giai đoạn khác nhau. Một số phong tục, thủ tục hiện nay đã bị coi là lỗi thời, chẳng hạn như việc Latinh hóa. Trong những thập niên gần đây, con đường nhìn nhận tính chuyên biệt, sự khác biệt và quyền tự trị của các Giáo hội này đã phát triển đáng kể.

c) Việc di cư đáng kể của các tín hữu từ Công Giáo Đông phương sang các vùng lãnh thổ có đa số là người Latinh đặt ra những vấn đề mục vụ quan trọng. Nếu mô hình hiện tại tiếp tục hoặc gia tăng, có thể có nhiều thành viên của Giáo Hội Công Giáo Đông phương ở hải ngoại hơn là ở các lãnh thổ theo giáo luật. Vì nhiều lý do, việc thiết lập các hệ thống phẩm trật phương Đông tại các quốc gia nhập cư là không đủ để giải quyết vấn đề, nhưng cần có các Giáo hội nghi lễ Latinh địa phương, nhân danh tính đồng nghị, để giúp đỡ các tín hữu phương Đông, những người đã di cư để bảo tồn bản sắc và trau dồi di sản chuyên biệt của họ mà không phải trải qua diễn trình đồng hóa.

Các vấn đề để xem xét

d) Chúng tôi đề nghị nghiên cứu thêm về sự đóng góp mà kinh nghiệm của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương có thể mang lại cho sự hiểu biết và thực hành tính đồng nghị.

e) Vẫn còn một số khó khăn liên quan đến vai trò của Đức Giáo Hoàng trong việc chấp thuận các giám mục được các Thượng Hội Đồng của các Giáo Hội độc lập bầu chọn cho lãnh thổ của họ và việc Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm các giám mục bên ngoài lãnh thổ giáo luật. Yêu cầu mở rộng quyền tài phán của các Thượng phụ ra ngoài lãnh thổ của các Thượng phụ cũng là vấn đề cần phân định và đối thoại với Tòa Thánh.

f) Ở những khu vực có sự hiện diện của các tín hữu thuộc các Giáo Hội Công Giáo khác nhau, chúng ta cần tìm ra những mô hình mang lại những hình thức hiệp nhất hữu hiệu trong đa dạng.

g) Chúng ta cần suy gẫm về sự đóng góp mà các Giáo Hội Công Giáo Đông phương có thể thực hiện cho sự hiệp nhất Kitô giáo và vai trò của họ trong các cuộc đối thoại liên tôn và liên văn hóa.

Các đề nghị

h) Trước hết, nảy sinh yêu cầu Đức Giáo Hoàng thành lập một Hội đồng thường trực gồm các Thượng Phụ và Tổng Giám mục cấp cao của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương.

i) Một số người đã yêu cầu triệu tập một Thượng hội đồng đặc biệt dành cho các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, căn tính và sứ mệnh của họ, cũng như giải quyết các thách thức mục vụ và giáo luật trong bối cảnh chiến tranh và tình trạng di cư ồ ạt.

j) Chúng ta cần thành lập một ủy ban chung gồm các nhà thần học, sử gia và giáo luật Đông phương và Latinh để giải quyết các vấn đề cần nghiên cứu thêm và đưa ra các đề nghị đưa ra con đường phía trước.

k) Cần phải có sự đại diện thỏa đáng của các thành viên các Giáo Hội Công Giáo Đông phương trong các cơ quan của Giáo triều Rôma để làm phong phú toàn thể Giáo hội bằng những quan điểm của họ, giúp giải quyết các vấn đề khi chúng nảy sinh và tạo điều kiện cho họ tham gia vào cuộc đối thoại ở nhiều bình diện khác nhau.

l) Để thúc đẩy các hình thức tiếp nhận biết tôn trọng di sản của các tín hữu trong các Giáo hội Đông phương, chúng ta cần tăng cường mối quan hệ giữa các giáo sĩ Đông phương ở hải ngoại và các giáo sĩ Latinh để đào sâu sự hiểu biết lẫn nhau và công nhận các Truyền thống tương ứng.

7. Trên Con Đường Hướng Tới Sự Hiệp Nhất Kitô Giáo

Các điểm hội tụ

a) Phiên họp Thượng Hội đồng này đã khai mạc bằng một cử chỉ đại kết sâu sắc. Đêm canh thức cầu nguyện “Cùng nhau” chứng kiến sự hiện diện của nhiều nhà lãnh đạo và đại diện của các hiệp thông Kitô giáo khác nhau bên cạnh Đức Giáo Hoàng Phanxicô, một dấu chỉ rõ ràng và đáng tin cậy về ý chí cùng nhau bước đi trong tinh thần hiệp nhất đức tin và trao đổi ân phúc. Sự kiện rất quan trọng này cũng cho phép chúng ta nhận ra rằng chúng ta đang ở trong một thời kỳ đại kết và tái khẳng định rằng những gì hiệp nhất chúng ta thì lớn hơn những gì chia rẽ chúng ta. Vì, chúng ta có chung “một Chúa, một đức tin, một phép rửa, một Thiên Chúa và là Cha của mọi người, Đấng ở trên mọi người, giữa mọi người và trong mọi người” (Eph. 4:5-6).

b) Bí tích Rửa tội, vốn là cội nguồn của nguyên tắc đồng nghị, cũng là nền tảng của đại kết. Thông qua nó, tất cả các Kitô hữu đều tham gia vào cảm thức đức tin và vì lý do này, họ phải được lắng nghe một cách cẩn thận, bất kể truyền thống của họ, như Phiên Họp của Thượng Hội Đồng đã làm trong quá trình phân định của mình. Không thể có tính đồng nghị nếu không có chiều kích đại kết.

c) Đại kết trước hết là vấn đề đổi mới tâm linh, đòi hỏi các tiến trình sám hối và hàn gắn ký ức. Phiên Họp đã cảm động khi nghe những chứng từ của các Kitô hữu thuộc các truyền thống giáo hội khác nhau, những người chia sẻ tình bạn, lời cầu nguyện và trên hết là cam kết phục vụ những người đang trải qua cảnh nghèo khó. Sự cống hiến cho những người nhỏ nhoi nhất đã gắn kết những điều này và giúp chúng ta tập trung vào những gì đã hiệp nhất tất cả những người tin vào Chúa Kitô. Vì vậy, điều quan trọng là đại kết phải được thực hành trước hết trong đời sống hàng ngày. Trong cuộc đối thoại thần học và định chế, việc kiên trì xây dựng sự hiểu biết lẫn nhau vẫn tiếp tục trong bầu không khí ngày càng tin cậy và cởi mở.

d) Trong không ít khu vực trên thế giới đang diễn ra một “chủ nghĩa đại kết bằng máu”, xuất phát từ các Kitô hữu thuộc các thống thuộc khác nhau, những người hiến mạng sống mình vì đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Lời chứng về cuộc tử nạn của họ hùng hồn hơn bất cứ lời nào. Sự hiệp nhất đến từ Thập Giá của Chúa.

e) Sự hợp tác giữa tất cả các Kitô hữu là điều thiết yếu trong việc giải quyết những thách thức mục vụ của thời đại chúng ta. Trong các xã hội tục hóa, điều này làm cho tiếng nói của Tin Mừng có sức mạnh lớn hơn. Trong bối cảnh của nghèo đói, nó thúc đẩy mọi người hợp lực để phục vụ công lý, hòa bình và phẩm giá của những người hèn mọn nhất. Trong mọi trường hợp, nó là nguồn lực để hàn gắn nền văn hóa hận thù, chia rẽ và chiến tranh khiến các nhóm, các dân tộc và quốc gia chống lại nhau.

f) Hôn nhân giữa các Kitô hữu thuộc các Giáo hội hoặc cộng đồng giáo hội khác nhau (hôn nhân giữa các giáo hội) có thể tạo thành những thực tại trong đó sự khôn ngoan hiệp thông có thể trưởng thành và có thể truyền giảng Tin Mừng cho nhau.

Các vấn đề để xem xét

g) Phiên họp của chúng tôi đã có thể tri nhận được những cách thức đa dạng mà các truyền thống Kitô giáo khác nhau hiểu về cơ cấu đồng nghị của Giáo hội. Trong các Giáo hội Chính thống, tính đồng nghị được hiểu theo nghĩa chặt chẽ như một biểu hiện của việc thực thi quyền lực tập thể chỉ dành riêng cho các giám mục (Thánh Thượng hội đồng). Nói rộng hơn, nó đề cập đến sự tham gia tích cực của tất cả các tín hữu vào đời sống và sứ mệnh của Giáo hội. Có một số tài liệu tham khảo về các thực hành trong các cộng đồng giáo hội khác, làm phong phú thêm các cuộc tranh luận của chúng tôi. Tất cả điều này đòi hỏi phải điều tra thêm.

h) Một chủ đề khác cần được khám phá liên quan đến mối liên kết giữa tính đồng nghị và tính ưu việt ở các bình diện khác nhau (địa phương, khu vực, phổ quát) trong sự phụ thuộc lẫn nhau của chúng. Chúng ta cần cùng nhau đọc lại lịch sử để vượt qua những rập khuôn và định kiến. Các cuộc đối thoại đại kết đang diễn ra đã mang lại sự hiểu biết tốt hơn, dựa trên các thực hành của thiên niên kỷ đầu tiên, dựa trên sự kiện tính đồng nghị và tính ưu việt là những thực tại có liên quan, bổ sung và không thể tách rời. Việc làm sáng tỏ điểm tế nhị này có những hệ quả đối với cách hiểu thừa tác vụ Phêrô nhằm phục vụ sự hiệp nhất, theo điều Thánh Gioan Phaolô II mong muốn trong thông điệp Ut unum sint.

i) Chúng ta cần xem xét vấn đề hiếu khách Thánh Thể (Communicatio in sacris) từ các quan điểm thần học, giáo luật và mục vụ dưới ánh sáng mối liên kết giữa sự hiệp thông bí tích và sự hiệp thông trong giáo hội. Vấn đề này đặc biệt quan trọng đối với các cặp vợ chồng liên giáo hội. Nó nêu lên sự cần thiết phải có một suy tư rộng rãi hơn về hôn nhân liên giáo hội.

j) Người ta cũng kêu gọi suy tư về hiện tượng các cộng đồng “phi giáo phái” và các phong trào “hồi sinh” lấy cảm hứng từ Kitô giáo, cũng được đông đảo các tín hữu vốn gốc Công Giáo tham gia.

Các đề nghị

k) Năm 2025 đánh dấu kỷ niệm Công đồng Nixêa (325), trong đó biểu tượng đức tin nhằm hiệp nhất tất cả các Kitô hữu đã được xây dựng. Việc cùng nhau kỷ niệm biến cố này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cách các vấn đề gây tranh cãi trước đây đã được thảo luận và giải quyết cùng nhau trong Công đồng như thế nào.

l) Trong cùng năm 2025, theo ơn quan phòng, ngày lễ trọng thể Phục Sinh sẽ trùng hợp với tất cả các Giáo Hội và cộng đoàn Kitô giáo. Phiên Họp bày tỏ mong muốn thiết tha có được một ngày lễ Phục Sinh chung để chúng ta có thể cử hành Sự Phục Sinh của Chúa, sự sống và ơn cứu độ của chúng ta trong cùng một ngày.

m) Ngoài ra còn có mong muốn tiếp tục thu hút các Kitô hữu thuộc các Giáo hội và truyền thống giáo hội khác tham gia vào các tiến trình đồng nghị Công Giáo ở mọi bình diện và mời thêm các đại biểu huynh đệ tham dự phiên họp tiếp theo của Phiên Họp vào năm 2024.

n) Một số người đã đưa ra đề nghị triệu tập một Thượng Hội đồng đại kết về sứ mệnh chung trong thế giới đương thời.

o) Cũng có đề nghị: nên thiết kế một sách thuật lại biến cố tử đạo đại kết.