Kỷ niệm sinh nhật GIÁM MỤC TRUYỀN GIÁO PHÊRÔ MARIA PHẠM NGỌC CHI (1909-1988)

Sứ vụ truyền giáo ở Đà nẵng (1963-1988)

Ngày 18-1-1963, thời ĐGH Gioan XXIII, Tòa Thánh tách địa phận Qui Nhơn làm hai, thiết lập Giáo phận Đà Nẵng, gồm tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Đức Cha không muốn gánh nặng địa phận mới cho ai. Nên đã tình nguyện xin Tòa Thánh nhận trách địa phận mới. ĐC là giám mục tiên khởi của Đà Nẵng.

Nhận chức ngày 1-5-1965. Chân ướt chân ráo về địa phận mới, chưa có tòa giám mục, ĐC phải tạm trú nhà xứ nhà thờ chính tòa Đà Nẵng hơn một năm. Năm 1966, xây xong tiểu chủng viện, ĐC mượn tạm lầu 2 để làm tòa giám mục. Đến 1970, ĐC mới thật sự có tòa giám mục để làm việc tại An Thượng.

Về nhân sự, địa phận mới chỉ có các nữ tu Dòng Thánh Phaolô, và một số ít cha Dòng Đa Minh. Đến 1974, ĐC đã mời đến làm việc trong giáo phận các cha Cha Xuân Bích, Dòng thánh Gioan Thiên Chúa, Dòng Don Bosco, Dòng Chúa Cứu Thế, Dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn, Dòng Mến Thánh Giá Thừa Sai, Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, Dòng Đức Mẹ Đi Viếng, Dòng Nazaret.

Về cơ sở vật chất, trong thời gian ngắn, 10 năm, ĐC đã kiến thiết xong : Tiểu chủng Viện Đà Nẵng thánh Gioan, ở An Thượng, Đại chủng viện PhướcTường, Nhà hưu dưỡng cho các linh mục, tòa giám mục, Bệnh viện thánh Gioan Thiên Chúa. Đưa Dòng Chúa Cứu Thế vào hoạt động trong vùng truyền giáo Bến Đò Xu, ngoại ô Đà Nẵng.

Yểm trợ cho nhiều linh mục xây nhà thờ, trường học, cô nhi viện, nhà dưỡng lão... ĐC đang tiến hành lập trường Mỹ Thuật, mời Dòng Don Bosco điều khiển, thì bị ngưng vì tình hình đau thương của đất nước.

Trong điếu văn tạm biệt ĐC, ngày lễ an táng (23-1-1988), giới tu sỹ Đà Nẵng thương tiếc. Và toàn giáo dân tỏ lòng ghi ơn trước linh cữu Đức Cha : Về giáo phận Đà Nẵng, Bề trên đặt lên vai Cha một nhiệm vụ hết sức nặng nề. Nhưng với lòng quả cảm, nhiệt tâm và với khối óc thông minh lỗi lạc và băng cả quyết tâm, Cha đã bắt đầu từ con số không để xây dựng giáo phận chúng con... Trong cương vị chủ chăn, Cha luôn nêu cao gương thánh thiện, hy sinh và cầu nguyện. Cha hiện thân của lòng bác ái vị tha, giúp đỡ người nghèo khổ, lắng nghe tiếng nói của con cái và sẵn sàng xoa dịu mọi khổ đau bằng tình thương của vị Hiền Phụ... Từ nay, Cha kính yêu không còn nữa. Nhưng di sản tinh thần Cha để lại thật vô giá. Chúng con biết lấy gì đền đáp cho cân xứng ?

Chân dung vị Giám mục Truyền giáo

Đức Cha khả ái Phạm Ngọc Chi đã qua đi, với bao luyến tiếc cho cả Giáo Hội VN. Nhưng sự nghiệp và chân dung người mục tử nhân hậu, khoan dung luôn sống động nơi người VN.

Con người văn hóa. Tới địa phận nào, ĐC cũng cho xuất bản ‘‘tờ thông tin của địa phận’’, mở thêm trường sở cho học sinh và cô nhi viện. Cuốn Phúc Âm Dẫn Giải, theo phương pháp mới, phân tích bình giải rõ ràng, in lại nhiều lần. Sách dày 559 trang cộng với nhiều trang phụ bản hình ảnh, được hoan ghênh và say mê đọc. Vào thập niên 50, có một tác phẩm như vậy là quí giá và công trình đáng cảm phục.

Qúi trọng và nâng đỡ ơn gọi. Từng là giáo sư, rồi phó giám đốc lên giám đốc Đại chủng viện. Nên ĐC thấu hiểu và quí trọng ơn gọi linh mục cũng như tu dòng. Mở ‘‘tu hội muộn’’ để có thêm linh mục. Nhiều chủng vì trở ngại tiến chức, đến gặp Ngài, Ngài đã nâng đỡ và cất nhắc lên chức linh mục. Số linh mục mà ngài đặt tay tuyền chức quá nhiều, tới cả 1000 vị.

Giám Mục truyền giáo. Hoạt động lớn và hiệu quả nhất của ĐC là phát triển và mở mang truyền giáo. Có những lần rửa tội cho tân tòng lên tới 5.000 hay 3.000 ngườI, ở Qui Nhơn. Đâu có thua gì thời các Tông Đồ. Có năm ĐC đã mỏi tay, phải nghỉ mới có sức tiếp tục đặt tay ban phép Thêm Sức cho 1.800 trẻ em. ĐC chú tâm xây thánh đường, mở thêm chủng viện và tu viện.

Qúi khách và biết dùng người. Không một ai đến với Ngài mà ra về mà không có gì an ủi, quà nho nhỏ mang về. Bất cứ thư nào cũng được Ngài trả lời. Khuyến khích, chọn nhiều người, kể cà giáo dân, đi du học. Mỗi ngành đều có ba người theo học. Và được đặt cử đúng khả năng và công việc. Một lần ở Sàigòn, dịp ‘‘cá tháng Tư, ngày 1-4-1955’’, một số linh mục bạn nói với một Cha, học trò của ĐC rằng : ĐC Chi cần gặp ngay. Cha này tưởng thật vội vàng lên văn phòng Di Cư gặp Ngài. Nhìn thấy cha này, ĐC cười và tặng cha này một ‘‘bao thơ tiền lễ’’. Trở về nhà, cha này mới biết mình mắc cắn câu do ‘‘cá tháng Tư’’.

Một khuôn mặt lớn của Giáo Hội VN. Đức Cha nổi tiếng ngoại giao giỏi và ăn nói hoạt bát, nên đã từng hướng dẫn các giám VN tham dự nhiều đại hội tôn giáo quốc tế và Tòa Thánh. Đức Cha thường được cử đón tiếp phái đoàn ngoại quốc đến thăm Hội Đồng Giám Mục VN.

Con người đầy tình yêu thương, lòng biết ơn và đức khiêm nhường, được ĐC ghi trong di chúc : Cả đời tôi là một chuỗi tình thương của Chúa, tôi ca ngượi không cùng. Tôi phải cám ơn cha mẹ đã sinh ra tôi. Dạy dỗ tôi. Tôi cám ơn các ân nhân các đấng bậc đã giùp đỡ tôi. Tôi không quên được các vị đầu tiên đã dẫn dắt tôi lên bàn thờ Chúa. Tôi cám ơn các cha giáo sư và người giúp việc, khi tôi làm giám đốc đại chủng viện Phát Diệm. Tôi cám ơn các cha và các người giúp tôi khi tôi làm giám mục Bùi Chu, Qui Nhơn và Đà Nẵng. Các dòng tu đã giúp tôi rất nhiều khi tôi còn sống, thì chắc bây giờ còn giúp tôi trong lời cầu nguyện. Trước khi ký tên chúc thư, ĐC viết : Đối với những người thù ghét tôi, làm khổ tôi, nếu có, tôi không buồn ai cả. Trái lại, tôi xin Chúa chúc lành cho họ, chúc lành cho gia đình họ.

Những ngày Cuối Đời

Sau 1975, Đức Cha phải đi học tập cải tạo tư tưởng, trong hai tháng, làm việc gặp riêng với phó trường ty công an tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng. Tháng đầu, mỗi ngày 8 tiếng từ sáng tới chiều. Tháng thứ hai, hai tuần đầu mỗi ngày 4 tiếng, hai tuần sau mỗi ngày hai tiếng. Sau hai tháng, ĐC được trả tự do.

Thế rồi, ngày 10-7-1084, bất ngờ, Tòa giám mục An Thượng bị bao vây, phòng Đức Cha và Cha Quản Lý bị phong tỏa và khám xét, không chừa một đồ vật nhỏ. Hôm sau, ĐC bị đi làm việc, và bị áp lực nhường Tòa giám mục, tiểu chủng viện Gioan và tu viện Gioan Thiên Chúa, cho nhà nước. Riêng ngài kể từ 20-7-1984, được đưa đi biệt giam tại Trà Kiệu cho đến ngày qua đời.

Ngày 6-6-1975, Đà Nẵng có ĐC Phó là ĐC FX. Nguyễn Quang Sách. Mãi đến ngày 10-7-1984, Đức Cha Chi mới trao quyền cho ĐC FX. Nguyễn Quang Sách.

Vừa do điều kiện tuổi tác, sức khỏe và như áp lực nói trên, sau một năm mừng Kim Khánh linh mục, tại tòa giám mục Đà Nẵng, Đức Cha về nghỉ hưu tại giáo xứ Trà Kiệu, do tay ngài xậy cất. Ở Trà Kiệu gần 4 năm, thời gian này coi như bị biệt giam. Rồi bất ngờ, ngày 19-10-1984, ngài bị bệnh đường ruột, được đưa vào điều trị tại bệnh viện Đa Khoa, Đà Nẵng. Từ đây, ngài yếu dần và nửa tỉnh nửa mê. Ngày 12-1-1988, ngài được xức dầu và rước Mình Thánh Chúa. Đến 21-1-1988, lúc 14g25, lễ thánh Agnès đồng trinh tử đạo, ngài ra đi bình an về nơi cõi phúc. Khoảng giờ Chúa Kitô hy sinh trên Thánh giá. Được biết, mấy ngày trước đó, 18-1-1988, tại nhà thờ chính tòa Đà Nẵng, giáo phận đã dâng lễ tạ ơn mừng kỷ niệm 25 năm thàng lập giáo phận, cũng là 25 năm ĐC là chủ chăn giáo phận. Thánh lễ an táng được cử hành ngày 23-1-1988, lúc 11giờ, tại nhà thờ Trà Kiệu do Đức do Đức TGM Huế Nguyễn Kim Điền, 5 giám mục và 40 linh mục đồng tế. Đông đảo tu sỹ và khoảng 5.000 giao dân tham dự tiễn đưa. Thi hài ĐC Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi được chôn cất tại nghĩa trang các linh mục bên cạnh nhà thờ Trà Kiệu. Hưởng thọ 79 tuổi, làm linh mục 55 năm và giám mục 38 năm.

Quả thật, ít có giám mục nào mà đời sống có nhiều biến động như ĐC Phạm Ngọc Chi. Về Bùi Chu trong tình hình chính trị quân sự hết sức rối ren. Di cư vào nam, ĐC lặn lội với đồng bào di cư và đặc trách Công Giáo Tiến Hành. Nhận Qui Nhơn trong thiếu thốn đủ mặt mà nhiều việc. Tự nguyện làm giám mục Đà Nẵng. chức ba lần mà không được chấp nhận. Từ 1984, về hưu ‘‘trong tình trạng biệt giam, sống nửa tỉnh nửa mê cho tới ngày Chúa gọi ‘‘Phêrô, hãy theo Thầy’’.

Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi là một nhà truyền giáo có tầm vóc lớn, một ngư phủ biệt tài. Xứng đáng là ‘‘Tiểu Phêrô’’ của GH VN. Vì ĐC chọn khẩu hiệu ‘‘Vâng lời Thày, con thả lưới’’ đã thực hiện trọn vẹn hơn lòng mong ước. Tưởng là chỉ quăng lưới ở Bùi Chu, ai ngờ Chúa quan phòng, Ngài vung lưới khắp ba miền đất nước. Mẻ cá nào cũng đày ắp, thuyền gần chìm, phải có bạn bè đến kéo phụ. Công này thật to lớn, nhưng ngài khiêm nhường nói : ‘‘Tướng mạnh vì quân. Các cha và anh chị em giáo hữu làm nhiều, chứ tôi làm mấy tý’’. (giaoxuvnparis.org)

Tài Liệu tham khảo

- Cuộc Di Cư Lịch Sử tại Việt Nam. Phủ Tổng Ủy Di Cư Tị Nạn. Công hòa VN.

- Hoàng Kim và Phạm Biển Thước. Đức Giám Mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi. CA. 1993.

- Lm. Trần Đức Huynh. Lịch Sử Địa Phận Bùi Chu. CA. 2000.