Phần Một: Dẫn nhập vào Kinh Thánh

Mục Một: Dẫn nhập vào Cựu Ước

Tiết Hai: Dẫn nhập vào các sách lịch sử


Chương một: Tổng quan về các sách lịch sử


Peter Dubovský SJ
The Jerome Biblical Commentary for the Twenty-First Century, các trang 361-372


Tài liệu Tham khảo

Brueggemann, Walter. The Bible Makes Sense. Ấn bản tái duyệt. Louisville, KY: Westminster John Knox, 2001.
Furay, Conal and Michael J. Salevouris. The Methods and Skills of History: A Practical Guide. Arlington Heights, IL: H. Davidson, 1988.
Gunkel, Herman. Introduction to Psalms: The Genres of Religious Lyric of Israel. Macon, GA: Mercer University Press, 1998.
Liverani, Mario. Israel’s History and The History of Israel. London and Oakville, CT: Equinox Publishing, 2005.
Römer, Thomas. The So-Called Deuteronomistic History: A Sociological, Historical and Literary Introduction. London and New York: T & T Clark, 2005.
Wiliamson, Hug G.M. 1 and 2 Chronicles. Grand Rapids, MI: Eerdmans, 1982.

(I).Nội dung các sách lịch sử

Các sách lịch sử gồm 13 cuốn có thể chia thành 4 nhóm.

Nhóm thứ nhất gọi là lịch sử đệ nhị luật. Nó bao gồm các sách Giosuê, mô tả việc chinh phục lãnh thổ Israel, sách Thủ Lãnh, trình bầy đời sống các bộ lạc Israel trước chế độ quân chủ, các sách 1-2 Samuen, thuật lại các câu truyện về hai vị vua đầu tiên là Saun và Đavít, và sách các Vua 1-2, kể lại lịch sử từ Vua Salômôn tới việc thất thủ Giêrusalem. Lịch sử đệ nhị luật như thế nói đến lịch sử của Israel cổ thời từ việc chiếm Canaan (khoảng thế kỷ thứ 13 TCN) cho tới việc mất Giuđa (thế kỷ thứ 6 TCN).

Nhóm thứ hai được biết dưới những danh xưng khác nhau như lịch sử biên niên hay hậu lưu đầy. Nó bao gồm các sách Biên niên sử 1-2, Etra, và Nơkhemia. Các chương 1Sử biên 1-9 liệt kê các gia phả tổ tiên Israel bắt đầu với Ađam và xuyên suốt 12 tổ tiên Israel cho tới Vua Saun và Vua Đavít. Từ 1 Sử biên 10, nhà biên niên sử trình bầy lịch sử Giuđa cho đến thời lưu đầy Babylon một phần dựa trên 1-2 Samuen và 1-2 Vua. Các sách Étra và Nơkhemia trình bầy các câu truyện của những người trở về từ lưu đầy, tái thiết Giêrusalem, và tái thiết đền thờ trong các thập niên đầu tiên của thời kỳ Ba Tư. Bốn sách này kể lại lịch sử của Israel từ ngày sáng thế tới ngày tái thiết đền thờ Giêrusalem nghĩa là đến thời Ba Tư (vào khoảng thế kỷ thứ 6 TCN).

Nhóm thứ ba của các sách lịch sử kể lại câu truyện nổi dậy của Macabê. Qui điển Công Giáo chỉ bao gồm 1-2 Macabê, trong khi một số Giáo Hội Chính Thống bao gồm cả 3-4 Macabê nữa. Cốt truyện của 1-2 Macabê được định vị vào cuối thời văn hóa Hy Lạp và bắt đầu thời La Mã (thế kỷ thứ hai TCN). Nó mô tả các cuộc chiến thắng của nhà Macabê và việc thanh tẩy đền thờ.

Bốn trình thuật lịch sử cũng được bao gồm dưới tựa đề Sách Lịch Sử. Sách Rút mô tả số phận đáng buồn của Naomi, người mất chồng ở Môáp và cùng với con dâu Rút trở về Israel. Họ được cứu bởi lòng đại lượng của Bôát, người si tình Rút và cưới nàng làm vợ. Trình thuật được định vị vào thời Thủ Lãnh. Các cốt truyện của Tôbít, Giuđitha và Étte về phương diện lịch sử đươc định vị vào thời lưu đầy. Sách Étte mô tả cuộc âm mưu của Haman muốn tận diệt người Do Thái khỏi vương quốc Ba Tư. Moócđokhai khám phá ra âm mưu và thúc hoàng hậu Étte can thiệp. Nhờ lời cầu nguyện và sức quyến rũ, nàng đã có thể cứu dân Do Thái. Sách Giuđitha thuật lại cuộc kháng chiến anh hùng của người Do Thái chống lại Nabucôđônôxo, Vua Átsua. Tướng Hôlôphécnê của ông ta mở chiến dịch chống Giuđa, nhưng nữ anh hùng xinh đẹp Giuđitha đã chém đầu ông ta tại lều của ông ta và do đó đánh bại đạo quân địch thù áp đảo. Sách Tôbia kể lại câu truyện của gia đình Tôbít đạo hạnh tại nơi lưu đầy.

(II).Bản chất các sách lịch sử

Các sách lịch sử thuật lại toàn bộ lịch sử thế giới trước Chúa Kitô, bắt đầu với Ađam cho tới tận thời La Mã. Như tựa đề của tuyển tập cho thấy, trong nhiều thế kỷ, các sách này là nguồn duy nhất để dựng lại lịch sử Israel cổ thời, các định chế và thực hành tôn giáo của nó. Các học giả và tín hữu Công Giáo cũng như phần lớn các tín hữu và học giả khác, ngoại trừ rất ít, đã chấp nhận giá trị bề mặt của các sách lịch sử này. Theo quan điểm này, bản chất các sách lịch sử chủ yếu liên quan đến lịch sử Israel cổ thời về phương diện chính trị, tôn giáo và xã hội. Cách tiếp cận này kéo dài tới cuối thế kỷ 19, khi bằng chứng khảo cổ, các nghiên cứu về thể và nguồn văn, cũng như các tài liệu ngoài Kinh Thánh khai quật được không những xác nhận mà còn tra vấn các sự kiện được mô tả trong Kinh Thánh. Một đàng, các biên niên sử hoàng gia Ai Cập cho thấy có một nhóm người gọi là Do Thái hiện diện từ thế kỷ 13 tới thế kỷ 12 TCN và đạo thờ YHWH đã loan truyền ở Palestine vào thời kỳ này. Đàng khác, các biên niên sử Át-sua và Babylon cũng xác nhận rằng Xankhêríp từng tấn công và tàn phá Giuđa năm 701 TCN như đã được nói đến ở 2V 18-19 và Nabucôđônôxo quả có chinh phục và cướp phá Giêrusalem năm 598/7 TCN như đã được kể trong 2V24. Đàng khác, việc khai quật tại Giêricô đã nghi vấn cuộc chinh phục thành kiên cố Giêricô một cách lạ lùng của Giosuê (Gs 6) vì không có bức tường được khai quật nào có thể được định niên biểu vào cuối Thời Hậu Đồng. Đàng khác, các nghiên cứu văn chương, cách riêng, trong lịch sử đệ nhị luật (Gs-2V) cho thấy phần lớn các sách này được soạn thảo và biên tập vào những thời kỳ sau đó. Những vấn đề này và các vấn đề khác tạo nghi vấn đối với tính đáng tin lịch sử của các sách lịch sử.

Song song với bản chất lịch sử của các sách lịch sử là việc giải thích thần học về chúng. Các giáo phụ và các nhà thần học từng lý luận rằng các sách lịch sử không chuyên nhất nói đến lịch sử mà mục đích chính của chúng là trình bầy lịch sử cứu rỗi. Theo đường lối giải thích này, đường lối, dưới nhiều tựa mục khác nhau, đã được người Công Giáo tiếp nhận, các sách litch sử được hiểu như tuyển tập các trước tác chuẩn bị cho nhân loại đón nhận việc nhập thể của Chúa Giêsu Kitô. Trong thuật ngữ thần học, các sách lịch sử phác họa lịch sử nhân loại trước Chúa Giêsu. Giải thích thần học của các sách lịch sử giúp các tín hữu giảm nhẹ các hoài nghi liên quan tới tính lịch sử của các sách lịch sử. Người Công Giáo không chỉ giới hạn vào các khía cạnh lịch sử của các sách lịch sử, vì theo lối giải thích này, mục đích chính của những sách này là trình bầy một nền thần học của Israel ngày trước. Tóm lại, bản chất các sách lịch sử không có tính lịch sử mà có tính thần học.

Vấn đề liên quan tới bản chất các sách lịch sử có những hệ luận đối với việc giải thích các sách lịch sử: Các sách này chủ yếu bàn về lịch sử, hay thần học, hay cả hai? Bất chấp rất nhiều mực đã được các nhà thần học và chú giải đã đổ ra nhằm ráng đưa ra câu trả lời cuối cùng cho tính lịch sử của các sách lịch sử, các nghi vấn này vẫn liên tục tái xuất dưới nhiều tựa mục và khung cảnh khác nhau.

(III). Các sách lịch sử có chủ yếu bàn về lịch sử hay không?

Điểm khởi đầu để xác định bản chất các sách lịch sử là định nghĩa về lịch sử và tiếp theo là định nghĩa về các sách lịch sử. L. von Ranke định nghĩa lịch sử như một cố gắng để hiểu nó thực sự là gì. Như thế, lịch sử dựng lại các biến cố như chúng đã diễn ra và một cách khách quan bao nhiêu có thể. Bất chấp các hạn chế của lối định nghĩa này, người ta không thể bác bỏ tầm quan trọng của nó. Để viết một lịch sử cổ thời, nhà viết sử phải nắm vững các sự kiện căn bản như bảng niên đại về các vị vua và các nhà cai trị, bối cảnh sắc tộc học của cách chính thể và bộ lạc, các cuộc chiến và dự án xây dựng của họ, các liên hệ quốc tế giữa các thực thể chính trị, và các điểm xoay chiều trong lịch sử của một vùng nhất định. Để đạt được mục tiêu này, nhà viết sử phải trả lời các câu hỏi đơn giản nhưng chằng chéo: điều gì đã diễn ra? Nó đã xẩy ra khi nào và ở đâu? Ai tạo ra nó? Tại sai nó diễn ra và nó diễn ra cách nào? Câu trả lời cho các câu hỏi này là khởi đầu cho việc hiểu quá khứ. Nhìn cẩn thận hơn vào các sách lịch sử cho ta thấy rằng các sách lịch sử chứa đựng nhiều đoạn quả có mô tả các sự kiện và biến cố (Tl 3:13; 2V 23:7), đồng bộ hóa các triều đại (1V 15:1-2; Er 1:1) và cung cấp các chi tiết địa dư (xem Gs 18:12-13) như các tài liệu lịch sử cổ thời khác đã làm. Hơn nữa, các sách lịch sử cũng liệt kê các gia phả (1Sb 1-90, tường trình các chi tiết về các dự án xây dựng (1V 6-7; 2Sb 3) và về các cải tổ tôn giáo (2V 22-23), mô tả các cơ cấu xã hội (Xem Tl 3-9; 1V 4; Nkm 1) và trình bầy hậu cảnh các mưu đồ trong triều đình (Tl 8-9; 1V 1). Tóm lại, các sách lịch sử cung cấp thông tin trực tiếp và gián tiếp từ đó, các học giả có thể tái dựng lịch sử chính trị, xã hội và tôn giáo của Israel cổ thời. Do đó, liệu ta có thể sử dụng các sách lịch sử như nguồn để tái dựng quá khứ Israel như các giáo phụ và học giả quen làm trong nhiều thế kỷ qua hay không?

Trong phần lớn thế kỷ 20, nền học giả Cựu ước được thống trị bởi trường phái của William Foxwell Albright (1891-1971), người từng cố gắng củng cố giải trình Kinh Thánh bằng khoa khảo cổ và bằng cách so sánh với các nguồn của Cận Đông xưa. Một trong các học trò của Albright, John Bright, đã công bố một lịch sử nổi tiếng về Israel năm 1959, trong đó, ông lập luận rằng không ai có thể nghi vấn điều này: các tổ tiên của Israel từng là nô lệ bên Ai Cập, đã trốn thoát một cách lạ lùng và chinh phục Đất Thánh. Mấy thập niên sau, tình thế đã thay đổi và Thomas L. Thompson đề nghị bác bỏ các nguồn Kinh Thánh vì chúng không đáng tin cậy, và để tái dựng một lịch sử Israel cổ thời, đã sử dụng bằng chứng chuyên nhất của khảo cổ và các tài liệu ngoài Kinh Thánh. Như thế, chỉ trong khoảng vài thập niên, quả lắc đã chuyển dịch từ niềm tin căn bản chắc chắn sang một hoài nghi nền tảng đối với các trình thuật Kinh Thánh như được kể trong các sách lịch sử. Sự chuyển dịch này đi song song với cuộc truy tìm duy nghiệm việc chứng thực cho các thông tin cần thiết trước khi một nhà viết sử có thể bao gồm bất cứ trình thuật cổ xưa nào, kể cả trình thuật Kinh Thánh, để tái dựng hợp lịch sử câu truyện của các xã hội cổ thời.

Việc chuyển dịch trong lối giải thích các sách lịch sử đề ra nhiều câu hỏi mới: Một đàng, nhà viết sử có thể đặt câu hỏi: các sách lịch sử có phải là sản phẩm tưởng tượng hay ý thức hệ của ký lục hay chúng thực sự mô tả điều đã diễn ra? Mặt khác, nhà thần học đặt câu hỏi: liệu lời mặc khải của Thiên Chúa có chứa sai lầm hay không? Liệu các nhà thần học hệ thống có thể xây dựng lập luận của họ trên bản văn Kinh thánh mà về phương diện lịch sử không chính xác hoặc ngay cả sai lầm hay không?

Một tiêu chuẩn được chấp nhận tổng quát và hết sức hứa hẹn cho việc đánh giá tính đáng tin cậy của các đoạn trong các sách lịch sử là việc so sánh các bản văn Kinh thánh với các bằng chứng ngoài Kinh thánh. Bất chấp sự đóng góp không thể chối cãi của các nghiên cứu so sánh, tiêu chuẩn sao sánh giữa các sách lịch sử và các tài liệu ngoài Kinh thánh từng mang lại các kết quả mâu thuẫn nhau. Thí dụ, một đàng, cả Sử biên Babylon 5 lẫn 2V 24 đều kể lại cuộc chinh phục Giêrusalem, trong yếu tính, đã xác nhận trình thuật Kinh thánh. Mặt khác, các nghiên cứu so sánh đã làm dấy lên nhiều vấn đề mới. Thứ nhất, chỉ các thời Tân-Átsua, Văn hoá Hy Lạp, và La Mã cung cấp đủ tư liệu để ngữ cảnh hóa các trình thuật Kinh thánh. Còn đối với các thời kỳ lịch sử khác, tức các thời kỳ được mô tả trong sách Giosuê và Thủ Lãnh, thời kỳ vương quốc thống nhất và bắt đầu chế độ quân chủ chia rẽ, và cả thời kỳ Ba Tư, chúng ta chỉ có rất ít tài liệu viết từ phương đông cổ thời. Thành thử, phần lớn các biến cố được mô tả trong các sách lịch sử không có các đọan song hành trong các tài liệu ngoài Kinh thánh. Thứ hai, các nghiên cứu so sánh cũng cho thấy rằng một số tuyên bố trong các sách lịch sử không đáng tin cậy. Thí dụ, Tôbia 1:15 cho rằng Xankhêríp là con trai của Sanmanexe V, trong khi trên thực tế, ông ta là con trai Sargon II.

Lưu ý đến sự hiếm hoi các nguồn cổ xưa và coi việc so sánh giữa các dữ liệu Kinh thánh và ngoài Kinh thánh như tiêu chuẩn chính để thiết lập tính đáng tin cậy cho các sách lịch sử, các bản văn Kinh thánh có thể chia thành 4 nhóm:

(a) Một biến cố mô tả trong các trình thuật Kinh thánh gần như tương ứng hoàn toàn với các tài liệu ngoài Kinh thánh hay các dữ liệu khảo cổ. Ngoài trường hợp đã nhắc ở trên về việc Babylon chinh phục Giêrusalem năm 598/7 TCN, việc mô tả chiến dịch của Tích-lát Pi-le-xe III chống Israel năm 734-732 TCN được kể lại ở 2V 15:29 tương ứng với trình thuật được tường trình trong biên niên sử hoàng gia Átsua và bằng chứng khảo cổ. Cũng vậy, việc khai quật tại Bết-se-mét xác nhận trận đánh giữa Giô-át và A-mát-gia-hu mô tả trong 2V 14:11-12. Đối với nhóm biến cố này, phương pháp luận do Albright và các đồ đệ của ông thiết lập cho rằng cá dữ liệu khảo cổ và bản văn có thể củng cố tính lịch sử của Kinh thánh hay ngữ cảnh hóa các biến cố vẫn còn là cách tiếp cận có giá trị.

(b) Phần lớn các trình thuật Kinh thánh không có các điểm tham chiếu ngoài Kinh thánh tương ứng. Do đó, từ quan điểm lịch sử, không thể lượng định tính đáng tin cậy của chúng. Như thế, một sử gia không thể chứng minh hay bác bỏ tính lịch sử của một cược săn lùng quân sự của người E-mô-ri và người Mô-áp ở lãnh thổ Israel (Tl 3:8, 12; 4:2), cuộc chinh phục Ê- đôm của Giu-đa (2V 14: 7) v.v… Trong những trường hợp này, thử nghiệm duy nhất các học giả có thể sử dụng là lượng giá xem liệu việc mô tả một biến cố nhất định nào đó có tương đương với khung cảnh văn hóa và xã hội được tái dựng dựa trên các nguồn khác hay không. Vì thế, Sử biên Babylon xác nhận rằng quân đội Ai Cập do Neco II lãnh đạo đã từ Ai Cập tiến qua Syria-Palestine để ngăn chặn Babylon mở rộng giữa năm 610 và 605 TCN, nhưng liệu, trong chiến dịch này, Neco của Ai Cập có thực sự giết Vua Giô-si-gia (+609) hay không thì không thể chứng minh được (2V 23:29). Ngược lại, việc phân tích các nguồn của Ai Cập cho thấy rằng các vua Ai Cập không bao giờ cho các con gái của họ làm vợ các vua nước ngoài. Dĩ nhiên, bằng chứng hàng loạt của các nguồn Ai Cập đặt dấu hỏi đối với việc Sa-lô-môn cưới con gái Pha-ra-ô (1V 3:1).

(c) Một biến cố được tái dựng từ trình thuật kinh thánh mà khác trong một số chi tiết với biến cố được tái dựng từ các dữ kiện ngoài kinh thánh. Việc thất thủ Samaria có thể rơi vào trường hợp này. Theo 2V 17, Vua Átsua San-ma-na-xe V chịu trách nhiệm chinh phục Sa-ma-ria và dẫn độ người Do Thái cũng như đưa người nước ngoài vào Bắc Israel năm 722 TCN. Tuy nhiên, các nguồn Át-sua và Ba-by-lon cung cấp một mô tả có sắc thái hơn cho thấy việc thất thủ Sa-ma-ria liên hệ tới 2 Vua Át-sua: San-ma-na-xe V và Sargon II, và cần tới hơn 20 năm. Trong trường hợp này và những trường hợp khác, vệc so sánh các dữ kiện kinh thánh và ngoài kinh thánh có hiệu quả, vì các nguồn ngoài kinh thánh có thể được bổ túc bằng các dữ kiện kinh thánh và ngược lại.

(d) Nhiều sách lịch sử hiện đại và cổ thời chức các dữ kiện không chính xác và sai lạc. các sách lịch sử không phải là ngoại lệ và chịu đủ thứ bất toàn của bất cứ bản văn chép sử cổ xưa nào. Lý do chính tại sao “các sai lạc” đã được bao gồm là thời gian cách quãng giữa tác giả và biến cố. Thời gian càng trôi qua, tác giả càng ít có thông tin để sử dụng và, do đó, bản văn cuối cùng càng chứa nhiều lỗi lầm hơn nữa. Đó là trường hợp của các sách Tô-bi-a và Giu-đi-tha hay các trình thuật về việc chinh phục Ca-na-an trong sách Gio-su-ê và các chiến thắng của các thủ lãnh được viết vài thế kỷ sau.

Điều quan trọng là bác bỏ điều này: các sách lịch sử là các chứng tá của lịch sử Israel cổ thời, khi xem xét các bất cập mà mọi nguồn cổ thời đều vấp phải. Các thiếu sót và sai lạc đã nhắc có thể được giải thích bởi việc hiếm hoi các nguồn có sẵn cho các người viết sau này. Việc thiếu dữ kiện và thông tin không chính xác đôi khi có thể được bổ túc nhờ các tài liệu ngoài Kinh thánh.

Bất chấp các sự kiện đó, việc sử dụng các bản văn thuộc các nhóm 2 và 4 cho các mục đích sử học gây ra cuộc thảo luận nóng bỏng giữa các học giả kinh thánh được biết dưới tên “duy tối thiểu” (minimalists) ngược với “duy tối đa” (maximalists). Việc dựa vào các bản văn kinh thánh mà không phân biệt chúng thuộc nhóm nào được dán nhãn hiệu đọc theo kiểu duy tối đa các sách lịch sử, ngược với lối đọc duy tối thiểu chỉ sử dụng các bản văn thuộc nhóm 1. Hình thức cực đoan của lối đọc duy tối thiểu loại bỏ bất cứ bản văn kinh thánh nào về việc tái dựng lịch sử Israel và chuyên nhất dựa vào các dữ kiện ngoài kinh thánh.

(IV). Các sách lịch sử có phải chủ yếu nói tới thần học không?

Bất chấp các cố gắng hòa hợp các nguồn kinh thánh và ngoài kinh thánh, vẫn có rất nhiều đoạn đáng hoài nghi về phương diện lịch sử trong các sách lịch sử. Thí dụ, việc tái dựng triều đại của Xan-khê-ríp dựa trên các biên niên sử của Át-sua và kiến thức về các bành trướng của Át-sua trong giai đoạn 701 tới 681 TCN loại bỏ khả thể cho rằng 185,000 quân lính Át-sua đã chết ở Giu-đa như được mô tả ở 2V 19:35. Tuy nhiên, câu sau đó nhắc tới việc sát hại Xan-khê-ríp (2V 19:36-37) có thể được chứng minh một cách an toàn từ các tài liệu Át-sua; và ngay cả tên của những kẻ giết người cũng đều chính xác, mặc dù bị bóp méo bởi cách chuyển tự (transliteration). Các câu này chứng tỏ trong các bản văn kinh thánh cổ xưa cũng như trong các bản văn cổ xưa khác, các dữ kiện đáng tin về phương diện lịch sử đã bị trộn lẫn với trình thuật đáng hoài nghi về phương diện lịch sử. Sự can thiệp lạ lùng của một thiên thần để tiêu diệt quân đội Átsua có ý nghĩa thần học. Theo 2V, Đế quốc Átsua rõ ràng đã biến mất sau việc phá hủy doanh trại quân sự Átsua. Thực vậy, điều trái ngược mới đúng. Átsua bành trướng sau chiến dịch chống Giu-đa năm 701 TCN và trong ít thập niên đã kiểm soát toàn bộ thế giới được biết đến vào thời ấy. Thực vậy, sức mạnh của Átsua đạt tới tuyệt đỉnh sau chiến dịch này. Hiển nhiên, việc bại trận lạ lùng của quân đội Átsua tại các cổng thành Giêrusalem, đọc dưới ánh sáng bài ca của Isaia ở 2V 19, tập chú sự chú ý của độc giả tới vấn đề tại sao Syria sụp đổ chứ không phải vấn đề khi nào và thế nào. Sự sụp đổ của Átsua là kết quả của sự ngạo mạn và xét cho cùng chính Thiên Chúa đã khiến Átsua sụp đổ.

Lối đọc các sách lịch sử cẩn thận hơn cho thấy không những các biến cố đơn lẻ mâu thuẫn với thực tại mà trọn bộ trình thuật là những giải trình thần học chứ không phải sự kiện. Như thế, ý niệm chinh phục quân sự của Israel như được mô tả trong Sách Gio-suê mâu thuẫn với các dữ kiện khảo cổ và dẫn tới một hậu cảnh phụng vụ cho các trình thuật chinh phục.

Một đàng, các thí dụ này và việc phân chia các sách lịch sử thành 4 nhóm ngăn ngừa việc giản lược các sách lịch sử vào loại giáo khoa lịch sử; đàng khác, cũng không thể giới hạn các sách lịch sử vào loại thần học luật sĩ. Một đánh giá chính xác các sách lịch sử đòi các nghiên cứu so sánh và văn chương nhằm cung cấp một căn bản an toàn để lượng giá xem liệu một phần nhất định nào đó của các sách lịch sử có hoàn toàn hay một phần đáng tin cậy về phương diện lịch sử hay tác giả kinh thánh bắt tính chính xác lịch sử lệ thuộc các ý niệm thần học hay ý thức hệ.

(V). Các sách lịch sử như khoa chép sử cổ thời

Các khuynh hướng nghiên cứu các sách lịch sử từng cố gắng phối hợp chiều kích lịch sử và thần học/ý thức hệ của các sách lịch sử nhằm giải thích đúng các đoạn không đáng tin cậy về phương diện lịch sử của các sách lịch sử. Vì mục đích này, John Van Seters và những người khác đã nói về khoa chép sử cổ thời. Do đó, nhiệm vụ của khoa chú giải lịch sử là vượt quá các biến cố và cho thấy các luật sĩ xưa đã viết các suy tư của họ ra sao về quá khứ.

Các nghiên cứu về khoa chép sử và ý thức hệ của các bản văn kinh thánh xưa và các bản văn xưa khác cho thấy rằng các bản văn kinh thánh có chung không những các mẫu và thể văn với các bản văn Cận Đông khác mà cả các giải thiết tôn giáo và văn hóa, mà xét cho cùng đã tạo nên cách Cận Đông viết lịch sử. “khi bạn nghiên cứu ‘khoa chép sử’, bạn không trực tiếp nghiên cứu các biến cố của quá khứ, mà là các giải thích thay đổi về các biến cố này trong công trình của các sử gia cá thể” (Furay và Salevouris, 1988:223). Thực vậy, một giải thích thay đổi về quá khứ tạo nên tiền đề căn bản của việc nghiên cứu khoa chép sử của Israel. Dưới ánh sáng này, việc nghiên cứu các sách lịch sử không thể bị giản lược vào việc tái dựng các biến cố chính trị và tôn giáo, nhưng nó nên trình bầy rõ các trào lưu văn chương và thần học cuối cùng đã khai sinh ra các suy nghĩ chằng chéo về lịch sử của Israel xưa. Thành thử, các sách lịch sử, ngoài việc cung ứng một số thoáng nhìn vào lịch sử của Israel xưa, còn cho phép độc giả tiếp xúc với môi trường trí thức và tôn giáo vốn xác định dữ kiện nào bị loại bỏ và dữ kiện nào được bao gồm, biến cố nào nên được trình bầy như can thiệp của thần minh, và biến cố nào thuộc lãnh vự nhân bản. Cách tiếp cận các sách lịch sử này đã chuyển vị lưu ý từ lịch sử chính trị qua khoa chép sử, được nhắm như một tái dựng các mẫu và kỹ thuật giải thích mà người thời xưa vốn dùng để soạn tác và viết xuống các giải thích của họ về quá khứ. Trào lưu học giả mới này thúc giục độc giả bỏ các cuộc thảo luận vô bổ về việc liệu Sa-lô-môn có xây các chuồng ngựa và dinh thự tại Megiddo như được nhắc tới ở 1V 9:15 hay liệu Nơ-khe-mia có quả là một viên chức cao cấp trong triều đình Ba Tư hay không. Thế hệ mới các nhà sử học nêu ra một số câu hỏi mới. Đâu là mẫu mực thần học đã khiến các biến cố được trình bầy trong kinh thánh một cách nhất định nào đó?

Một sự so sánh các bản văn của Cận Đông xưa thuộc đệ nhất thiên niên kỷ TCN với các sách lịch sử cho thấy: cả hai bộ cùng có ý niệm tương tự về thần tính và các can thiệp của nó trong lịch sử, cách thông đạt với thần minh qua cử chỉ, mẫu giận phạt của thần minh, ngôn ngữ cường điệu khi mô tả vinh quang của vua chúa, con số không đúng thực tại quân ngũ bị tiêu diệt, cơ cấu tổ phụ của các xã hội v.v... Những tiền đề thần học này lên khuôn việc tổ chức các bản văn lịch sử và việc phải viết các biến cố này ra sao vào cách sách Các Vua nhưng phải khác với các khuôn mẫu tổ chức của sách Thủ Lãnh và các sách Biên niên sử. Trong trường hợp các sách Macabê 1-2 và nhà chép sử thế kỷ thứ nhất CN, Josephus, các trình thuật lịch sử có được một văn phong mới, chịu ảnh hưởng nặng nề của khoa chép sử Hy Lạp và La Mã. Những thí dụ này cho thấy các bình diện thần học và lịch sử đã nối kết một cách nội tại xiết bao trong các sách lịch sử.

(VI). Việc hình thành Các Sách Lịch Sử

Nhiều thế kỷ nghiên cứu cho thấy: các sách lịch sử đã trải qua một diễn trình lâu dài và phức tạp trong việc thu thập các nguồn, soạn thảo và hiệu đính sau đó. Phương thức này đã phát sinh ở Đức được biết đến như là phương pháp phê bình lịchsử (historical-critical method). Dưới tựa đề này, người ta đặt khá nhiều phương pháp luận khác nhau như khoa phê bình nguồn, khoa phê bình hình thức và khoa phê bình bản văn, lịch sử soạn thảo, Literaturkritik [phê bình văn học], überlieferungsgeschichte [lịch sử truyền tải]v.v... Giả định căn bản của các phương pháp luận này là các sách lịch sử không được viết theo cùng một lối như Thần Kịch của Dante hay Hamlet của Shakespeare nghĩa là có một tác giả và viết trong một thời kỳ lịch sử, nhưng là kết quả hàng thế kỷ thu thập và hiệu đính các nguồn và truyền thống khác nhau.

Phương thức phê bình lịch sử đối với các sách lịch sử trở thành phương pháp luận chính ở Phương Tây trong hai thế kỷ nay. Mặc dù lối đọc các sách lịch sử này bị thách thức nghiêm trọng, tuy nhiên, nó đã kháng cự các hoài nghi, nghi ngờ và tấn công và tiếp tục được thực hành. Giá trị của phương pháp luận này đối với các sách lịch sử có thể được chứng minh cách gián tiếp nhờ các bản văn lịch sử khai quật được ở Lưỡng Hà. Nhiều tấm bảng từ thiên niên kỷ thứ nhất TCN mang lại cho chúng ta không những khả thể tái dựng các biến cố lịch sử, mà còn nghiên cứu việc nội dung các trước tác lịch sử đã được thu thập, hiệu đính, tóm tắt v.v... ra sao. Từ việc so sánh các diễn trình soạn thảo ở Israel và Lưỡng Hà, người ta có thể kết luận rằng cả các học giả (scribes) kinh thánh lẫn Lưỡng Hà đều cảm thấy tự do dùng chữ khác, tóm tắt, kéo dài hay phối hợp các bản văn được thừa tự. Tóm lại, việc thu thập và hiệu đính các nguồn khác nhau là một sinh hoạt học giả trong thiên niên kỷ thứ nhất TCN. Áp dụng các kết quả của lối nghiên cứu này vào các học giả của các sách lịch sử chứng tỏ rằng không thể nói về một tác giả cho các sách Samuen 1-2, một Sitz im Leben [khung cảnh sống] cho sách Thủ Lãnh, một thể văn cho sách Các Vua 1-2, và một bản văn cuối cùng cho sách Étte. Tóm lại, người ta chỉ có thể thể hiểu trọn vẹn bản văn cuối cùng của các sách lịch sử khi các lớp lang khác nhau được tách biệt và dịnh niên đại một cách thích đáng nghĩa là áp dụng phương pháp phê bình lịch sử.

(VII). Lịch sử đệ nhị luật

So sánh ngôn ngữ, hình thức văn chương, và hậu cảnh xã hội tôn giáo của các Sách Lịch sử, chúng ta có thể tách biệt Lịch sử Đệ nhị luật (Gs-2v) ra khỏi phần còn lại của các Sách Lịch sử (1-2 Sb, Er, Nkm, 1-2 Mcb, Rút, Et, Tl, và Tb). Martin Noth, khi nghiên cứu toàn bộ Đệ nhị luật, đã kết luận rằng Gs-2V đã được soạn thảo bởi một tác giả và trình bầy phần lớn câu truyện xưa hiện còn của quá khứ Israel. Vì những sách này chứa một số phát biểu cũng tìm thấy trong Đệ nhị luật, nên tác giả của Gs-2V được gọi là nhà Đệ nhị luật.

Vì giả thuyết của Noth về một soạn giả đơn nhất chịu trách nhiệm soạn thảo lịch sử đệ nhị luật, nên một vài mô hình có sắc thái hơn đã được đưa ra, trong đó, đáng kể nhất là các mô hình về nguồn gốc, soạn thảo kép và Schichten hay lớp lang (strata).

Lý thuyết nguồn do John Gray đề xuất. Việc ông cẩn thận đọc các bản văn Kinh thánh cho thấy có những bản văn trong các Sách Lịch sử rõ ràng phát xuất từ một tác giả Giu-đê, vì các bản văn này nghiêm khắc chỉ trích Vương quốc Phương Bắc. Các bản văn này rất có thể được rút ra từ văn khố Đền thờ Giêrusalem. Tuy nhiên, cũng có những bản văn ca ngợi các đền thờ phương Bắc ở Bethel và Dan và thậm chí còn gọi các vua phương Bắc là cứu chúa (xem 2V 13-14). Những bản văn này có thể đã không được soạn thảo bởi các tác giả Giu-đê và Gray gợi ý: chúng phát xuất từ văn khố Samaria và Bethel. Các nguồn độc lập phương nam và phương bắc này được gom lại với nhau bởi một người thu thập và sau đó được hiệu đính bởi một người hiệu đính hậu lưu đầy.

Mô hình thứ hai, vì giải thích việc hình thành các Sách Lịch sử, nên được gọi là soạn thảo kép (Đnl 1 và Đnl 2). Frank Moore Cross, Patricia Dutcher-Walls và Gary Knoppers là những người trình bầy quan trọng nhất của lý thuyết này. Nó giả thiết rằng có hai bàn tay chính can dự vào việc viết và hiệu đính các Sách Lịch sử. Đnl 1 được nhận diện ở lời hứa vô điều kiện dành cho quốc gia và dòng dõi Đavít. Cross cho rằng lớp lang này đươc soạn thảo trước khi bị lưu đầy. Sau lưu đầy, các Sách Lịch sử phải được xem lại dưới góc độ tai họa do người Babylon gây ra và các lời hứa mang hình thức có điều kiện: nếu các ngươi (tuân giữ)... các ngươi sẽ...; nếu các ngươi không (tuân giữ)..., các ngươi sẽ... Các lời hứa có điều kiện giúp giải thích sự sụp đổ của Samaria và Giêrusalem. Lớp lang này được gọi là Đnl2. Hai lớp lang này được xét duyệt một phần, và được hiệu đính thêm sau đó.

Mô hình soạn thảo kép cạnh tranh với mô hình soạn thảo 3 lần được biết dưới tên mô hình Schichten (hay Lớp lang), được khai triển bởi Rudolf Smend, Walter Dietrich, và Timo Veijola. Mô hình soạn thảo này đề xuất rằng các Sách Lịch sử được soạn thảo từ ba lớp lang chính (1) ĐnlG (các phần lịch sử) mô tả các biến cố lịch sử, (2) ĐnlP (các phần tiên tri) gồm các trình thuật tiên tri được lưu truyền một cách độc lập tại Israel, và (3) ĐnlN (các phần luật lệ) tập chú vào việc giữ luật và các giới răn. Các lớp lang này có lẽ được phối hợp thời hậu lưu đầy.

Mặc dù các mô hình này bị nghi vấn rộng dài, luận lý nằm dưới chúng vẫ còn giá trị. Các học giả gần đây đả đề xuất các lý thuyết có lưu ý tới những điểm mạnh hơn của 3 nhóm tyrên đây. Các dữ kiện mới phát xuất từ các bản văn ngoài Kinh thánh và các khai quật khảo cổ cũng cung cấp nhiều tư liệu mới cho việc nghiên cứu việc hình thành ra bản văn. Vì thế, các học giả tìm tòi các tham chiếu trực tiếp và gián tiếp trong các biên niên sử và thư từ hoàng gia có thể giúp định niên đại cho các bản văn Kinh thánh, tìm tòi các dữ kiện địa lý có thể có tính đặc trưng cho một thời kỳ lịch sử nhất định hay sử dụng ngôn ngữ lịch sử để thiết lập niên đại tương đối hoặc tuyệt đối và các lớp lang soạn thảo trong các Sách Lịch sử. Trong số các học giả nổi tiếng nhất, người ta có thể nhắc đến David Carr, Norbert Lohfink, Alexander Rofé, Thomas Römer, Konrad Schmid v.v... Các lý thuyết của họ liên kết các lớp lang đệ nhị luật với các thời kỳ lịch sử như, chẳng hạn, Tiền Đnl (các phần tiền đệ nhị luật) ĐnlNa (các phần Đnl Tân-Átsua), ĐnlNB (các phần đệ nhị luật Tân Babylon), ĐnlEP (các phần Đnl Ba tư tiên khởi), ĐnlLP (Các phần Đnl Ba Tư sau này), và Hậu Đnl (các phần hậu Đnl).

Việc phân chia bản văn Đệ nhị luật không những là một thao tác lý thuyết, nó còn tác động lên việc giải thích thần học các Sách Lịch sử. Nếu chúng ta theo các học giả từng gán lớp lang thứ nhất của lịch sử đệ nhị luật cho Giô-si-gia, thì chúng ta có thể giả thiết rằng việc dẹp bỏ các nơi cao và việc tập trung thờ phượng là các biểu thức của thần học/ý thức hệ quốc gia tiền lưu đầy được tạo ra trong một thời gian độc lập ngắn của Giu-đê-a sau sự sụp đổ của Átsua. Tuy nhiên, nếu các đoạn nói tới việc tập trung thờ phượng được định niên đại vào thời hậu lưu đầy, thì độc giả sẽ phải đối đầu với một ý niệm thần học nhằm giải thích sự thất thủ của Giêrusalem vốn rất ít liên hệ tới thực tại.

Điển hình đó minh họa việc, nhờ chọn lọc và phân tích các lớp lang khác nhau của lịch sử đệ nhị luật, các học giả tái dựng được các mẫu mực và nền thần học chép sử thường mâu thuẫn với nhau. Thành thử, chúng ta không có một nền thần học duy nhất của quá khứ Israel, nhưng đúng hơn, một vài nền thần học và thường mâu thuẫn nhau, vốn liên hệ mật thiết với các phong trào chính trị, học giả, và tôn giáo chuyên thúc đẩy nghị trình riêng của họ. Theo ngôn từ thần học, Kinh thánh không có một lịch sử cứu rỗi gắn bó duy nhất, mà có nhiều trào lưu thần học khác nhau.

(VIII). Các sách không có tính đệ nhị luật trong các sách lịch sử

Các nghiên cứu đã nhắc trên đây chủ yếu tập chú vào lịch sử đệ nhị luật được người ta tin là nguồn xưa nhất hiện có để tái dựng Israel xưa. Các học giả cũng từng áp dụng các phương pháp phê bình lịch sử vào các sách còn lại của các Sách Lịch sử. Việc áp dụng các phương pháp này vào các sách Bên niên sử, Étra và Nơ-khe-mia cho ta những kết quả bất ngờ. Vì thế, trong các sách Étra và Nơkhemia, các học giả nhận ra tư liệu trước thời Étra-Nơkhemia, các ký ức của Étra và Nơkhemia, và các can thiệp về tư liệu và soạn thảo sau đó. Tuy nhiên, các phương pháp này có ít giá trị đối với các trình thuật như Rút, Tôbia, Giuđitha và 1-2 Macabê. Thành thử, trong những năm gần đây, chú ý của các học giả đã chuyển qua cách chép sử của biên niên sử hay hậu lưu đầy (1-2 Sb, Er, Nkm). Lịch sử văn hóa Hy Lạp (1-2 Mcb) và các sách đệ nhị luật (Tl và Tôbia). Vì phần lớn các sách này không trải qua một diễn trình hiệu đính phức tạp, các học giả đã áp dụng các phương pháp và ý niệm mới để nghiên cứu các sách này.

Điều hữu ích là phân biệt hai khía cạnh của hạn từ lịch sử:

Lịch sử - một giải trình trần trụi những gì đã diễn ra (xem Salômôn liên minh qua hôn nhân với Pharaô, vua Ai Cập).

Geschichte [câu chuyện]– giải trình các biến cố và sự kiện quá khứ được trình bầy bằng ngôn từ của ý nghĩa đương thời của chúng. Mục đích đệ nhất đẳng của trình thuật lịch sử không phải là tái dựng biến cố quá khứ mà là hiện thực hóa nó cho các độc giả đương thời và kích thích đáp ứng, như hoán cải, hy vọng, ăn năn. Như thế, trình thuật về Giarópam (Jeroboam) I (1V 11-14) đã sử dụng các dữ kiện lịch sử một cách tự do để khuyến khích độc giả hậu lưu đầy nâng cao hy vọng giữa cảnh lưu đầy.

Tiểu thuyết/hư cấu lịch sử - một hư cấu văn chương sử dụng các dữ kiện lịch sử mà không có cao vọng viết một tường trình lịch sử (Rút, Et, Tl, Tb)

Sự chú ý đã chuyển dịch từ các phương pháp phê bình lịch sử qua việc phân tích các kỹ thuật chép sử của học giả.

Việc áp dụng các phạm trù này vào các Sách Lịch sử sau đó làm nẩy sinh điều gọi là các nghiên cứu “Kinh thánh viết lại”. Thuật ngữ này được sử dụng để chỉ 1-2 Biên niên sử như phiên bản viết lại của St-2V với tập chú vào vương quốc Giuđa. Tác giả Biên niên sử vì sống vào một thời kỳ lịch sử khác, nên cảm thấy nhu cầu phải kể lại lịch sử quốc gia mình theo một quan diểm khác. Thực vậy, ông đã hiện thực hóa các trình thuật trước đó cho một loại thính giả mới (Geschichte). Vì mục tiêu này, ông đã thêm các mẩu thông tin mới vốn không được bao gồm trong các sách Samuen và Các Vua, loại bỏ trọn những đoạn liên quan tới vương quốc phương Bắc và tóm lược tiền sử bằng các gia phả. Hơn nữa, ông còn tái giải thích một số biến cố và anh hùng của lịch sử Giuđa. Điển hình rõ nhất là nhân vật Vua Mơnaxe (Manasseh). Trong 2V 21, Mơnaxe là vị vua tệ nhất trong lịch sử và cuối cùng chịu trách nhiệm làm mất Giêrusalem. Tuy nhiên, trong 2Sb 33, Mơnaxe ăn năn và tác giả Sử biên chuyển trách nhiệm để mất Giêrusalem cho Akhát (Ahaz) (2Sb 28). Được tái giải thích tương tự như thế là vai trò của Đavít và Salômôn trong việc xây đền thờ. Trong khi ở 1V 4-8, Salômôn được kể có công xây dựng đền thờ, trong 1Sb 24-29, Đavít đóng vai trò còn quan trọng hơn thế nhiều.

Một cách hiện thực hóa các câu truyện và biến cố xưa cho lớp thính giả mới có thể thấy nơi các tiểu thuyết lịch sử (Rút, Étra, Tôbia, Thủ lãnh). Các trình thuật này chỉ lỏng lẻo liên kết với các biến cố lịch sử và thường không chính xác. Đúng hơn chúng quan tâm tới các cuộc tranh luận tôn giáo, như bàn về sự mù quáng thể lý và tâm linh và các vấn đề hôn nhân trong Tôbia, sự tinh tuyền của tôn giáo và thờ phượng trong Giuđítha, ngày Lễ Purim trong Étte v.v... Bất chấp chút ít giá trị lịch sử của những soạn tác này, mục đích của chúng là hiện thực hóa quá khứ không phải bằng cách thuật lại niên biểu của vua chúa, mà trình bầy các câu truyện của cuộc sống hàng ngày, tập chú vào những anh hùng hạng hai, truyền bá các giá trị và khuyến khích độc giả đấu tranh cho bản sắc quốc gia.

Khuynh hướng viết lại lịch sử của Israel xưa tiếp diễn vào thời La Mã khi Josephus soạn bộ khổng lồ Antiquities of the Jews (Thời xưa của người Do Thái). Cả 1-2Sb lẫn Antiquities đều sử dụng các nguồn độc lập, cả hai cung cấp lối giải thích mới cho các sách trước đó của Cựu Ước, cả hai dẫn nhập nhiều thay đổi quan trọng, và cả hai đã sửa đổi các giải thích thần học. Tuy nhiên, trong khi Sử biên trở thành phiên bản hợp qui và được bao gồm vào Qui Điển Công Giáo, thì Antiquities, bất chấp giá trị cao về văn chương và lịch sử, chỉ một phần được bao gồm trong Qui điển Chính Thống Ácmênia và Syria, chứ không trong qui điển Công Giáo.

(IX). Các truyền thống bản văn

Giai đoạn cuối cùng của việc hình thành các Sách Lịch sử là việc phiên dịch chúng sang các ngôn ngữ cổ xưa. Nhiều bản chép tay các Sách Lịch sử tiếng Hípri, Aram, Syria và Hy Lạp chứng tỏ rằng bản văn của các Sách Lịch sử không hóa thạch. Các thay đổi thuộc nhiều loại khác nhau. Trong các sách Gio-su-ê và Thủ lãnh, chỉ có một ít thay đổi thần học nhỏ. Thí dụ bản Bẩy Mươi thiếu việc nhắc đến các tư tế trong mô tả cuộc chinh phục Giêricô (Gs.6:3b.4.6b.9a) và các đền thánh tại 6:24; 9:23;24:2. Tuy nhiên, các thay đổi giữa các bản văn Hípri và Hy Lạp thì có thực chất hơn trong 1Sm-2V, Et và Tb.

Các nghiên cứu bản văn mới về các sách 1Sm-2V cho thấy bản Masoretic trẻ hơn bản văn Hy Lạp gọi là Bản Hy Lạp Cổ. Bản Hy Lạp Cổ, được duy trì phần lớn trong phiên bản Antiôkia (một phiên bản được sử dụng tại Antiôkia) và một phần cũng có trong bản Vetus Latina (Bản Latinh cổ), đại diện cho việc dịch sang tiếng Hy Lạp một bản văn Hípri không được duy trì, nhưng hiện hữu trước bản Masoteric, vào thế ký thứ ba hay thứ hai TCN. Như thế, bản Hy Lạp cổ của 1Sm-2V là bản văn cổ xưa nhất mà chúng ta hiện có để sử dụng. Bản này sau đó đã được sửa đổi và hiệu đính nhiều lần cho tới khi đạt được hình thức sau cùng như đã được lưu giữ trong Codex Vaticanus, Codex Alexandria, Codex Leningadensis, v.v… Thí dụ, có một ít thay đổi quan trọng trong trình thuật về Đa-vít và Gô-li-át (1Sm 17), bài ca của bà An-na (1Sm 2) v.v… Trong 1-2V, có một vài thay đổi với nhiều hệ luận thần học như việc giải thích đền thờ và sự Hiện diện của Thiên Chúa trong đó (1V 6:11-13 bị bỏ trong bản Bẩy Mươi; 1V 8:12-13 được hoàn toàn duyệt lại trong bản Bẩy Mươi).

Hiển nhiên, sự hiện hữu của những bản chép tay và ấn bản khác nhau tác động lên hệ luận lịch sử và thần học rút ra từ bản văn. Về hệ luận lịch sử, Bản Hy Lạp Cổ của 1V 5:1 thuật rằng Khiram (Hiram) (Vua Tia [Tyre]), sai các thuộc hạ đi nghinh đón Sa-lô-môn khi ông nghe tin Sa-lô-môn đã được xức dầu phong vương. 3V 5:1 của bản Bẩy Mươi nói rằng Khi-ram sai thuộc hạ đi xức dầu cho Sa-lô-môn. Điều này có nghĩa theo bản Hy Lạp Cổ, Sa-lô-môn là thuộc hạ của Khi-ram trong khi theo bản Masoretic, Sa-lô-môn là đối tác của Khiram. Còn về hệ luận thần học, chúng ta hãy xem 1V 17-19. Bản Masoretic của 1V 17-19 kết thúc với trận mưa và Êlia chạy trước Vua A-kháp (Ahab). Nhà tiên tri được mô tả như người trực tiếp thông đạt với Thiên Cúa và trừng phạt nhà vua thờ ngẫu thần. Nhưng không có quan tâm thực sự nào tới A-kháp. Bản Antiôkia thay thứ tự các chương và chu kỳ Êlia không chấm dứt ở 2V 19, nhưng ở chương 21 (Tình tiết vườn nho Na-vốt [Naboth]) mà trong bản Antiôkia được gắn với chương 19. Như thế, câu truyện tiếp tục ở Gít-rơ-en (Jezreel) và A-kháp cuối cùng nhìn nhận tội lỗi của mình và ăn năn sau một cuộc đối đầu lâu dài (3V 20, bản Bẩy Mươi). Như thế, bản Hy Lạo cung cấp một quan điểm thần học khác: các can thiệp của Êlia chủ yếu nhắm việc hoán cải, chứ không phải trừng phạt. Một việc tổ chức các chương như thế đã thay đổi thần học của chu kỳ Êlia và thích hợp hơn với các kiều bào Do Thái.

Các khác biệt tương tự cũng có thể tìm thấy trong phiên bản Hy Lạp dài hơn của Sách Étte được soạn thảo sau bản Hípri. Các lời cầu nguyện và thêm thắt mới cho bản Hípri ngắn hơn đã thay đổi không những năng động tính của trình thuật mà cả nền thần học của sách.

(X). Các hình thức văn chương của các Sách Lịch sử

Theo quan điểm thể văn, một số “sai lầm”, bỏ sót, và thêm thắt có tính cố ý, nhằm điều chỉnh các biến cố theo các khuôn mẫu văn chương nối kết với nền thần học cổ xưa hoặc ý thức hệ hoàng gia vốn thay đổi qua các thế kỷ. Các quy ước văn chương tương tự cũng được tìm thấy trong các bản văn Lưỡng Hà. Trong các biên niên sử Átsua, nhà vua luôn thắng trận, mặc dù, trên thực tế, ông bại trận. Tương tự như thế, theo Kinh thánh, Đa-vít và Sa-lô-môn kiểm soát hoàn toàn miền tây Cận Đông, tới tận sông Euphrates. Tuy nhiên, không có vương quốc Cận Đông nào ở thế kỷ thứ mười TCN có thể kiểm soát một lãnh thổ như vậy và việc trình bầy của Kinh thánh như vậy về Sa-lô-môn không tìm được một nâng đỡ nào trong các bằng chứng khảo cổ và ngoài Kinh thánh. Tuy thế, các nói quá tương tự như thế rất quen thuộc trong các bản khắc của hoàng gia Cận Đông và có thể coi như các tuyên truyền của họ. Đáng nghi vấn hơn nữa là các can thiệp lạ lùng của Thiên Chúa. Khi Gio-suê tấn công miền Nam Israel, ông gặp sức kháng cự của người E-mô-ri (Amorites). Thiên Chúa muốn giúp Gio-suê nên đã ngưng mặt trời cho đến khi Gio-suê thắng quân E-mô-ri (Gs 10:13). Bất chấp sự ngần ngừ của các học giả hiện đại trong việc chấp nhận các can thiệp của thần linh vào lịch sử, các biên niên sử và các sách lịch sử thời xưa đầy các biến cố thần thoại và phép lạ (vem anh hùng ca của Homer, các biên niên sử Átsua và Ai Cập) và quả không thể nào tưởng tượng được một khoa chép xử thời xưa nào mà lại không có sự can thiệp của thần linh.

H. Gunkel là học giả đầu tiên nghiêm túc xem xét không những nội dung mà cả hình thức của các Sách Lịch sử bằng cách du nhập vào việc nghiên cứu Kinh thánh ngành nghiên cứu văn thể và khoa phê bình hình thức. Việc nghiên cứu văn thể đã chuyển tập chú của học giả khỏi tính lịch sử của các Sách Lịch sử sang cấu trúc và khuôn mẫu của các bản văn Kinh thánh. Nó hỏi những câu hỏi như: Đâu là khía cạnh đặc trưng của bản văn này khiến đặt nó bên trong một nhóm đặc thù các bản văn? Nhận ra các thể văn giúp ta nắm được luận lý nằm dưới bản văn và ngăn cản độc giả không quá đọc các bản văn Kinh thánh. Thành thử, không thể mong chờ một trình thuật về một nữ anh hùng như Giu-đi-tha, được lên khuôn trong hình thức trình thuật của văn hóa Hy Lạp, có thể trình bầy quá khứ của Israel cùng một cách như các phần sử biên cả các sách như Các Vua và Sử biên. Tương tự như thế, tính đáng tin lịch sử của các đoạn tiên tri, luật lệ, và thi ca trong các Sách Lịch sử phải được đánh giá theo văn thể của chúng.

Nghiên cứu văn thể và việc áp dụng nó vào các Sách Lịch sử đã kinh qua nhiều thay đổi kể từ Gunkel. Các văn thể của các Sách Lịch sử có thể được chia thành 3 nhóm:

(1) Thuật ngữ Văn thể (Gatung) được áp dụng vào các loại văn chương lớn hơn như niên sử,biên niên sử, địa dư lịch sử,và tiểu thuyết lịch sử. Dựa vào tính phức tạp của các thể văn, ta có thể chia các Sách Lịch sử thành hai nhóm: (A) các bản văn chép sử (Gs, Tl, 1-2Sm, 1-2V, 1-2 Sb, Er, Nkm, và 1-2 Mcb) và (B) các soạn tác văn chương với các chủ đề quán xuyến có tính lịch sử (Rút, Étte, Tb., và Tl.). Nhóm đầu có xu hướng mô tả các biến cố lịch sử và tổ chức chúng theo các tiêu chuẩn thứ tự thời gian. Nhóm sau là những trình thuật hư cấu nhắc đến một số biến cố lịch sử một cách mờ nhạt.

(2) Các Sách Lịch sử cũng chứa một vài tiểu văn thể gọi là các hình thức văn chương, nghĩa là các soạn tác văn chương ngắn hơn bên trong một cuốn sách. Theo quan điểm hình thức văn chương, các Sách Lịch sử là các soạn tác phong phú và bao gồm các hình thức văn chương như danh sách (Er 2), thông tri (1V 9:16), báo cáo (1V 14:25-28), giải trình (1V 15:16-22), ngụ ngôn (Tl 9), truyện nhân gian (2Sm 2:1-11) và diễn từ chia tay (1Mcb 2:49-70). Các phạm trù này trở thành căn bản để hiểu các mô hình thông đạt trong các Sách Lịch sử. Do đó, điều cần là phân biệt các dã sử nhân gian trong chu kỳ Êlia-Êlisa (1V 17-2V13) với các lời cầu nguyện hậu lưu đầy trong Étte 4, với các dã sử chiến tranh trong 1-2 Mcb và với việc đánh giá các vua chúa về luân lý đệ nhị luật (2V 21).

(3) Công thức được định nghĩa như một thể văn ngắn mà nét chính của nó là việc giống nhau về ngữ học. Thí dụ bao gồm lời tiên tri tai họa (2V 22:16), sấm ngôn (Gs 24:2), các tóm lược triều đại lúc bắt đầu và lúc kết thúc trong 1-2V v.v…Các công thức đóng băng có thể trông giống như các bản tường trình đáng tin về phương diện lịch sử, dù chúng không thực sự như thế.

Nhờ việc giải mã các hình thức văn chương, các văn phong, và mẫu mực văn chương của các Sách Lịch sử, nhà giải thích có thể tránh được việc phóng chiếu hoài mong của mình lên bản văn.

Một phạm trù khác của Gunkel vốn gây ảnh hưởng lên việc giải thích các Sách Lịch sử là Sitz im Leben, đặt khung cảnh vào đời thực của người ta. Theo Gunkel, các thể văn có liên hệ mật thiết với đời thực:

“Trong đời thực, các phụ nữ ca bài ca chiến thắng cho các chiến binh chiến thắng trở về. Trong đời thực, một số những người khóc mướn chuyên nghiệp đã sáng chế ra những lời truy điệu đầy xúc động cho những người đã qua đời. Vị tiên tri cất cao giọng nói như sấm sét trên cộng đồng đang tụ tập, có lẽ ở sân ngoài đền thánh... Từ những điển hình này, người ta có thể thấy các thể văn trong các trước tác xưa hẳn đã được dị biệt hóa bởi rất nhiều biến cố đa dạng của đời sống mà từ đó chúng đã được khai triển” (Gunkel, Introduction, 7).

Một khi các nhà giải thích có thể cá tính hóa Sitz im Leben của một đoạn văn nhất định nào đó, họ có thể nối kết nó với bối cảnh của nó và có thể xác định được việc giải thích đoạn văn đó. Trong các Sách Lịch sử, người ta có thể tìm được những khung cảnh như phạm vi gia đình, khung cảnh luật lệ và tư pháp, phạm vi thờ phượng, các định chế chính trị. Như thế, lời ai ca và tán tụng Saun và Benjamin của Đa-vít trong 2Sm 1 có thể dẫn nhập người đọc vào nghi thức tang chế cổ thời dành cho người anh hùng quá vãng. Các phần có tính duy sử biên của 1 và 2 Vua dẫn họ vào triều đình, các trình thuật hư cấu có thể dẫn trở lại các truyền thống gia đình và luật sĩ, và các thư trong Ét-ra và Nơ -Khe-Mia mở ra cho người đọc thế giới luật lệ và ngoại giao của Ba Tư.

(XI). Bản văn sau cùng và kế sách biên tập các Sách Lịch sử

Trong hậu bán thế kỷ 20, quả lắc bác học lại lắc khỏi khoa phê bình lịch sử. Các học giả, mục tử, và nhiều người đọc các Sách Lịch sử bị lạc trong khu rừng văn thể, các tầng lớp bản văn và biên tập và các cách giải thích khoa chép sử mâu thuẫn nhau. Việc phân chia bản văn thành nhiều tầng lớp khác nhau khiến tính thống nhất của sứ điệp Kinh thánh biến mất. Như một kết quả của việc nguyên tử hóa các tầng lớp và khung cảnh lịch sử không chắc chắn của chúng, các Sách Lịch sử không còn là hướng dẫn cho đời sống thiêng liêng của các tín hữu nữa, hay là nền tảng cho các lập luận thần học, hay lịch sử cứu rỗi nữa.

Thành thử, các Sách Lịch sử được đọc trong hình thức sau cùng của chúng như một sự thống nhất văn chương và được phân tích bằng các phương pháp văn chương đồng đại (synchronic), như phê bình trình thuật, phân tích tu từ học và diễn thoại, nghiên cứu phản ứng người đọc, và phân tích ký hiệu học. Việc thay đồi chú ý này dẫn việc nghiên cứu các Sách Lịch sử vào các tiền đề lý thuyết mới và các phương thức có tính lý thuyết của khoa phê bình văn chương và các triết gia như Bakhtin, Ricoeur và Genette.

Đóng góp chính của các phương thức trên có hai mặt. Trước nhất, một số bất nhất trong các bản văn Kinh thánh từng bị coi như các dấu hiệu có nhiều soạn giả khác nhau được giải thích như các khí cụ trình thuật đặc trưng của thời kỳ đó. Điển hình rõ nhất là việc lặp lại cùng một chủ điểm vốn được coi như dấu mốc hiển nhiên của các nguồn khác nhau. Các nghiên cứu về những câu kép (doublets) và lặp đi lặp lại trong các sách lịch sử và các bản văn ngoài Kinh thánh chứng tỏ rằng các lặp đi lặp lại thường cố ý để nhấn mạnh một chủ đề nào đó, để tạo ra cấu trúc đồng tâm, để khai triển một chủ điểm thành hai hay nhiều hơn các giai đoạn, v.v... (xem 2V 17:24-41).

Hơn nữa, việc chú ý tới bản văn sau cùng cho thấy năng động tính nội tại của các sách lịch sử một cách không phương pháp phê bình lịch sử nào đã từng khám phá ra. Phương pháp quan trọng nhất đối với các sách lịch sử là việc nghiên cứu nghệ thuật trình thuật của Kinh thánh. Các học giả nghiên cứu các anh hùng đệ nhất và đệ nhị đẳng như Sa-un, Đa-vít, Khít-ki-gia (Hezekiah) và Khun-đa (Huldah), đã tập trung vào những từ khóa và ý nghĩa của nó trong đoạn văn, vào tính năng động nội tại của các đoạn văn, vào cấu trúc của chúng v.v... Cách đọc các sách lịch sử này trở thành phổ thông nơi người Công Giáo vì nó làm cho các sách lịch sử trở thành sống động, nó tỏ lộ điều này: các lưỡng nan tôn giáo và chính trị của các anh hùng trong Kinh thánh đều tương tự như các anh hùng của thời hiện đại.

Cuối cùng, khi các bản văn Kinh thánh hiển nhiên được coi như các soạn thảo của nhiều truyền thống bản văn khác nhau, các học giả tự hỏi liệu, bất chấp diễn trình biên tập phức tạp, bản văn sau cùng có được tổ chức như một thể thống nhất có ý nghĩa hay không. Các học giả nhấn mạnh rằng các nhà biên tập sau cùng đã cố gắng hết sức để cột các truyền thống khác nhau lại với nhau. Nhờ thế, trình thuật về Gia-róp-am (Jeroboam) I được nối kết với trình thuật về Giô-si-gia (Josiah) (1V 13:2 và 2V 21-23). Các câu truyện trong Thủ Lãnh được nối kết bằng một mẫu mực thần học: cứu rỗi-tội lỗi-trừng phạt-ăn năn-cứu rỗi (Tl 2-12). Để đạt mục đích này, một từ vựng mới đã được dẫn nhập vào việc nghiên cứu các sách lịch sử, như kỹ sảo soạn tác cố ý, kế sách soạn tác thận trọng bản văn sau cùng, người trình thuật, một độc giả tiềm ẩn v.v...

(XII). Các Sách Lịch sử trong qui điển Công Giáo

Các đóng góp không thể chối cãi của các nghiên cứu dị đại (diachronic) và đồng đại (synchronic) vẩn bỏ ngỏ nhiều câu hỏi, như có chăng sự mạch lạc nào trong trình thuật bao quát toàn bộ quá khứ của Israel chăng? Một vấn đề là trình bầy các dữ kiện và tái cấu trúc các phần của lịch sử và khoa chép sử của Israel; vấn đề khác là nghiên cứu việc các sử gia cổ thời tổ chức ra sao trình thuật tổng quan lịch sử của Israel. Cấu trúc và ý hướng của các trình thuật lịch sử tùy thuộc vào câu trả lời cho các câu hỏi sau đây: lịch sử ấy bắt đầu từ đâu? Nó bắt đầu từ A-đam như trong 1Sb 1, với việc ủy nhiệm cho Gio-suê (Gs 1), với việc ra đời của một thủ lãnh mới trong 1Sm 1, hay với cái chết của Đa-vít trong 1Vua? Nó kết thúc ở đâu? Nó kết thúc với việc cải tổ của Giô-si-gia như trong 2Vua 22-23, với việc trục xuất như trong 2Vua 25, với việc hồi hương từ lưu đầy như trong 2Sb 36, hay với việc chiếm cứ Giu-đa và chiến thắng Ni-ca-no (Nicanor) như trong 2Macabê 15? Các thời kỳ, các vua và các biến cố được tổ chức theo thứ tự nào? Có chăng một sơ đồ vòng tròn như trong Tl 2-12, một cốt chuyện trong đó, câu truyện Vua Sa-un đi song song với câu truyện Vua Đa-vít như trong 1-2Sm, một trình thuật đồng đại như trong 1-2Vua vốn đồng hộ hóa các vua của các vương quốc Bắc và Nam, hay một sơ đồ thẳng đường theo các thăng trầm của Giu-đa như trong 1-2Sb? Cuối cùng, cấu trúc của các lịch sử viết cũng được xác định bởi điều các luật sĩ nghĩ như cỗ máy lịch sử như nền thần học về sự phẫn nộ của Thiên Chúa (Tl 2), việc nên trọn lời tiên tri (các phần nói tiên tri trong 1-2Vua), lòng trung thành giữ giới răn của Thiên Chúa như trong Mcb 1-2 v.v...

Những câu hỏi trên khiến người đọc chú ý tới các đơn vị lớn hơn và trọn bộ gọi là các sách lịch sử. Trong khi các học giả thuộc các truyền thống tôn giáo khác nhau với một số dè dặt đều chia sẻ các phân tích đị đại và đồng đại được trình bầy ở trên, việc đọc các sách lịch sử như một thể thống nhất tùy thuộc qui điển sách thánh và việc giải thích toàn bộ lịch sử có khác nhau trong các truyền thống Do Thái, Thệ Phản, Chính Thống và Công Giáo.

Bên trong truyền thống Công Giáo, có 22 nghi lễ mà một số tuân theo các qui điển khác nhau một phần. Việc tổ chức các sách lịch sử trong Qui điển Công Giáo Rôma có luận lý khác với luận lý của Qui điển Do Thái là qui điển lồng Gio-suê – 2Vua vào các tiên tri, còn Rút, Ét-te, Ét-ra, Nơ-khe-mia và 1-2 Sử Biên lồng vào các Trước Tác. Việc tổ chức các sách lịch sử của Công Giáo Rôma trước nhất phản ảnh ý niệm diễn tiến theo đường thẳng của lịch sử. Lịch sử bắt đầu với Gio-suê và chạy qua thời kỳ các thủ lãnh, các chế độ quân chủ, lưu đầy, hồi hương từ lưu đầy, thời văn hóa Hy lạp thống trị Israel, và kết thúc với pax romana (hòa bình La Mã) (1Mcb 8). Việc tổ chức các sách lịch sử này đọc qua con mắt Kinh thánh Công Giáo (Cựu và Tân Ước)có chiếu kích Kitô học. Các sách lịch sử ngưng ở thời kỳ La Mã và các Tin Mừng lặp lại trình thuật với thời kỳ La Mã. Hơn nữa, Qui điển Công Giáo nối kết các sách lịch sử với Ngũ Thư như được trình bầy ở 1Sb 1-9. Nên việc trình bầy quá khứ của Israel bắt đầu với việc tạo dựng thế giới và kết thúc với thời kỳ La Mã, tức là, thời kỳ khi Chúa Giêsu Kitô sinh ra và tiếp tục cho tới tận cùng thế giới trong sách Khải Huyền. Việc tổ chức các sách Kinh thánh này đi vào một số biên niên sử Kitô giáo bắt đầu với việc tạo dựng thế giới và đi tới kỷ nguyên những người viết ra chúng. Qui điển Công Giáo và các biên niên sử lấy hứng từ chúng trình bầy một khai triển lịch sử diễn tiến, ngược với lối khai triển vòng tròn. Sau cùng, Qui điển Công Giáo cung cấp hai phân chia cho Cựu Ước: Ngũ Kinh và các sách lịch sử, và các sách Khôn ngoan-Tiên tri. Phân chia đầu trình bầy lịch sử đã khai triển ra sao từ A-đam cho tới Giu-đa Ma-ca-bê và các Tin Mừng nối tiếp biên niên sử từ Hoàng đế La Mã Augustus. Phân chia sau trình bầy 2 truyền thống tôn giáo – khôn ngoan và các tiên tri – dẫn người đọc tới việc xuất hiện lần thứ hai của Ê-lia trong Ma-la-khi 3:22-23. Và các Tin Mừng nhắc lại những câu này với nhân vật Gioan Tẩy giả như một Ê-lia mới. Mỗi khối trong Qui điển Công Giáo, theo cách riêng của nó, đã chuẩn bị cho việc xuất hiện kỷ nguyên Kitô giáo, trong khi Qui điển Do Thái kết thúc với 1-2 Sử Biên và chuẩn bị cho việc trở về Đất Hứa.

Có một khía cạnh độc đáo khác cho các sách lịch sử như đã được tổ chức trong Qui điển Công Giáo Rôma, tức việc lồng các trình thuật – Rút, Ét-te, Tôbia, và Giu-đi-tha- vào giữa các thu thập chép sử. Trong Qui điển Do Thái, Rút và Ét-te được đặt cùng với Diễm Ca, Ai Ca và Giảng viên (Qohelet) và do đó, làm thành bộ gọi là Megilloth. Chỗ đặt 5 trình thuật này trong Qui điển Công Giáo được hướng dẫn bởi các ghi chú theo thứ tự thời gian chứa trong các sách. Rút theo câu 1:1 được đặt vào thời các thủ lãnh và đó theo sau Sách Thủ Lãnh; Tôbia (1:15) nhắc tới việc hồi hương từ lưu đầy Ba-by-lon, còn Giu-đi-tha (1:1) được đặt theo thứ tự thời gian vào thời kỳ hậu lưu đầy và, do đó, được lồng vào sau 2 Biên niên sử và trước 1Ma-ca-bê. Các sách lịch sử trình bầy không những lịch sử các vua, như phần lớn khoa chép sử vẫn làm, mà còn lưu ý tới các thành phần bị đẩy qua bên lề các xã hội thời đó. Do đó, sách Rút đã thuật lại chuyện một góa phụ thời các Thủ lãnh lúc đói kém trầm trọng. Hiển nhiên không biên niên sử hoàng gia nào lại muốn kể câu chuyện của một góa phụ vô nghĩa, nhưng trong viễn ảnh Kitô giáo, ngay một góa phụ nghèo nàn cũng thuộc về gia phả Chúa Kitô (Mt 1:5). Các trình thuật khác minh họa các vấn đề của ngoại kiều sống trong triều đình Ba Tư (Sách Ét-te), các bối rối của một gia đình bị trục xuất (sách Tô-bia) và lòng can đảm của nữ anh hùng Do Thái đã lật ngược số phận Israel (sách Giu-đi-tha). Như thế, Qui điển Công Giáo thúc giục người đọc cân bằng lịch sử “cao”, tức lịch sử các vua chúa, anh hùng và các chiến dịch quân sự, với lịch sử “thấp”, tức lịch sử của dân thường, cả người nghèo lẫn người giầu.

(XIII). Sau bản văn và qui điển

Trong nhiều năm, việc giải thích các sách lịch sử qua các sơ đồ của các Giáo Phụ và nền thần học kinh viện đã thành qui phạm đối với người Công Giáo. Khi các phương pháp lịch sử và văn chương nhận được cơ sở trong khoa chú giải Công Giáo, các học giả không còn lưu ý tới việc Thánh Tôma Aquinô giải thích Kinh thánh ra sao và tập chú vào những gì Kinh thánh thực sự nói. Ngày nay, các học giả, một lần nữa, lại lưu ý tới những gì xẩy ra cho Kinh thánh sau khi Qui điển đã được ấn định. Xu hướng bác học này có một số tên như Lịchh sử giải thích, Lịch sử Hậu quả (History of Consequences), và Wirkungsgeschichte (Lịch sử Tác động). Các phương pháp này khảo sát việc các lối giải thích truyền thống đã phát sinh ra sao và tại sao chúng trở thành qui phạm. Thí dụ, Nữ hoàng Sơ-va (Sheba) và Vua Sa-lô-môn trở thành một đề tài quan trọng trong lối giải thích của Ki-tô giáo, chia thành hai luồng: chủ đề quán xuyến thứ nhất lấy hứng từ trình thuật Kinh thánh (1V 10:1-13). Việc đọc các câu này dưới ánh sáng Tv 45 và Công Vụ 8:27 trở thành lối giải thích Ki-tô giáo truyền thống chuyên hiểu nữ hoàng Sơ-va như nguyên mẫu dân ngoại đem các phẩm vật phong phú tới dâng cho Sa-lô-môn. Bà là tiền ảnh của Ba Vua đem lễ vật dâng kính Chúa Giêsu và lối giải thích này trở thành nguồn cảm hứng cho các hoạt động truyền giáo. Chủ đề quán xuyến thứ hai theo truyền thống bình dân và không có cơ sở trong Kinh thánh: nữ hoàng Sơ-va trở thành vợ Vua Sa-lô-môn và được ngự trên ngai cạnh ông. Do đó, nữ hoàng Sơ-va là tiền ảnh của việc phong nữ vương cho Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.

Nói một cách tổng quát, các sách lịch sử được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau trong truyền thống Công Giáo. Thứ nhất, cho các mục đích thần học và tín điều (Nữ hoàng Sơ-va là tiền ảnh của Ba Vua và gián tiếp nói tới Chúa Ki-tô); thứ hai, cho mục đích huấn giáo (Nữ hoàng Sơ-va trở thành biểu tượng nhân đức và chiêm ngưỡng Ngôi Lời Thiên Chúa); thứ ba, cho mục đích chính trị và ý thức hệ (Nữ hoàng Sơ-va đến để nghe sự khôn ngoan của Vua Sa-lô-môn, trong khi người Do Thái từ khước lắng nghe đức khôn ngoan của Chúa Giêsu như đã được bài giảng phản Do Thái của Thánh Ephrem quả quyết); cuối cùng, như một cảm hứng cho óc tưởng tượng nghệ thuật.

(XIV). Có chăng một lối giải thích các sách lịch sử của Công Giáo?

Các lối giải thích các sách lịch sử khác nhau được trình bầy ở trên mời gọi chúng ta xem xét một số mô hình Công Giáo dùng để giải thích các sách lịch sử.

Thứ nhất, người Công Giáo nên coi bản văn nào có tính qui phạm để họ suy tư trong khoa chú giải và thần học đặc biệt trong trường hợp 1Sm-2Vua và Ét-te? Các truyền thống Do Thái và một số truyền thống Thệ Phản chọn bản Masoretic của Do Thái. Tương tư như thế, đối với các nghi lễ Công Giáo Đông Phương, phiên bản qui phạm của Kinh thánh trở thành các bản văn Byzantine, Slavonic, Coptic, Syriac, hay Ethiopic. Nhưng đối với Công Giáo Rôma, tình hình có khó khăn hơn. Thứ nhất, không người Công Giáo Rôma nào có thể bác bỏ giá trị của bản Do Thái và, do đó, các bản chép tay tiếng Do Thái trở thành điểm tham chiếu cho bất cứ nghiên cứu chú giải nào. Thứ hai, các vị viết Tân Ước và các công đồng tiên khởi của Giáo Hội sử dụng bản văn Hy Lạp và các tín điều đầu tiên dựa vào các bản tiếng Hy Lạp và do đó, người Công Giáo không thể nào loại bỏ các bản chép tay bằng tiếng Hy Lạp khỏi giáo huấn và lời cầu nguyện của họ được. Thứ ba, truyền thống kinh viện thời trung cổ làm việc trên bản văn Latinh và, do đó, bản Phổ thông bằng tiếng Latinh đã tạo thành một phần không thể tách biệt của việc người Công Giáo đọc Kinh thánh. Tính đa nguyên về bản văn này cung cấp cho người Công Giáo thuộc nghi lễ Rôma không bị trói buộc vào một truyền thống bản văn duy nhất và vượt quá lời lẽ của Lời.

Thứ hai, lối giải thích các sách lịch sử của Công Giáo loại bỏ hai thái cực: hoặc đọc các sách theo giá trị bề mặt hoặc coi chúng như sản phẩm của suy đoán thần học của luật sĩ mà không có bất cứ cơ sở lịch sử nào. Lối giải thích Công Giáo nào cũng nên bén rễ sâu vào lịch sử, chỉ rõ các phương pháp viết sử nhờ đó, các tác giả hiện thực hóa lịch sử cho các người đọc của họ, và cuối cùng bật mí các phương diện thần học. Lối giải thích các sách lịch sử của Công Giáo không nên tự giới hạn vào lịch sử các tôn giáo, nhưng nhờ nắm vững tinh thần của Quii điển Công Giáo, suy tư về chính dĩ vãng của chúng ta.

Thứ ba, các người đọc Công Giáo không nên giới hạn lối giải thích của họ vào một phương pháp duy nhất, bất kể là đồng đại, dị đại, duy nữ, hay giáo luật, nhưng nên sử dụng nhiều phương pháp khác nhau tùy loại bản văn. Độc giả Công Giáo nào cũng không nên loại bỏ một số phương pháp luận như phương pháp phê bình lịch sử, vì đôi khi nó mang lại những kết quả lưỡng nghĩa. Việc loại bỏ như thế làm nghèo nàn chiều sâu của các sách lịch sử.

Thứ tư, việc nghiên cứu các thể văn và Sitz im Leben [vị trí trong cuộc sống] và các áp dụng muôn hình vạn trạng của chúng đã trở thành một phần không thể tách biệt của lối đọc các sách lịch sử của Công Giáo. (DV 12). Phương thức này, một đàng, cung cấp cho bất cứ người đọc nào cơ hội giải quyết vấn đề lịch sử tính và, đàng khác, đào xới được các khuôn mẫu tôn giáo và văn hóa và cuối cùng khai quật được các sứ điệp thần học nằm dưới các đoạn văn của các sách lịch sử vừa đáng tin cậy về phương diện lịch sử vừa đáng nghi vấn cũng về phương diện lịch sử. Các nghiên cứu về khoa chép sử, được bổ túc bởi các nghiên cứu các sách lịch sử bên trong Qui điển và truyền thống Công Giáo, đem lại cho người đọc các khí cụ để hiện thực hóa các sách lịch sử cho các cử tọa mới.