CƠN CÁM DỖ CỦA NHỮNG NGƯỜI THEO CHÚA KITÔ



Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Một lời cầu trong Kinh Lạy Cha mà chúng ta vốn thuộc nằm lòng và cũng thường xuyên đọc hằng ngày. Chắc chắn Thiên Chúa không muốn và cũng không thể nỡ để bất cứ ai phải sa chước cám dỗ. Cầu nguyện là để nhận biết thánh ý Chúa mà thực thi hơn là để bắt Chúa làm theo ý cầu xin của mình. Bởi chưng, Thiên Chúa đã biết rõ những gì chúng ta cần ngay trước khi ta cầu xin. Đấng Cứu Thế dạy ta cầu xin Cha trên trời “chớ để chúng con sa chước cám dỗ” phải chăng là để chúng ta biết rằng Thánh ý Cha trên trời muốn chúng ta phải cẩn trọng với các chước mưu cám dỗ của ma quỷ cũng như của những người xấu, của những thế lực đen tối. Biết cẩn trọng để rồi biết đề phòng chước cám dỗ bằng cách xa lánh và tìm cách chiến đấu, chống trả cách hữu hiệu. Để thực hiện mục đích này thì tiên vàn cần nắm rõ chiến thuật, chiến lược của ma quỷ và các thế lực xấu. Đặc biệt, chúng ta cần phải biết một cách nào đó các lãnh vực xung yếu mà ma quỷ thích tấn công, cám dỗ chúng ta. Sự thường, môn đệ thì không hơn thầy. Cách thế và những lãnh vực ma quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu thì nó cũng dùng để tấn công chúng ta. Vậy không gì hơn, chúng ta hãy xem xét những chước cám dỗ mà Đức Giêsu đã chịu trong thời gian chay tịnh ở hoang mạc cũng như trước giờ tử nạn để nhận rõ chước mưu cám dỗ của ma quỷ.

Chiến lược : Nói đến chiến lược thì ta nghĩ ngay đến sự trường kỳ, lâu dài. Thánh sử Luca cho ta thấy sự thật này : “ Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Đức Giêsu, ma quỷ bỏ đi và chờ đợi thời cơ” ( Lc 4,13 ). Trong quảng đời ba năm rao giảng, Chúa Giêsu đã không ít lần bị ma quỷ cám dỗ. Nó không chỉ cám dỗ Người khi Người chay tịnh 40 đêm ngày trong hoang mạc mà còn cám dỗ Người nhiều lần và nhiều cách thế khác nhau. Sau khi Người hóa bánh ra nhiều thì ma quỷ dùng quần chúng để cám dỗ Người làm vua ( x.Ga 6,1-15 ). Nó cũng dùng cả người môn đệ thân tín của Người là Phêrô để cám dỗ Người đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn (x.Mt 16,21-23 )…

Chiến thuật : qua câu chuyện Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong hoang mạc chúng ta nhận ra một trong những chiến thuật tinh ranh của ma quỷ là đánh ngay vào chính khả năng người nó cám dỗ. Một kiểu đánh quả là độc chiêu. Không ai lại không ít nhiều tự hào về khả năng của mình. Khi hướng được khả năng của ai đó đi theo chiều của mình, theo cung cách của mình thì ta hầu chắc nắm phần thắng trong tay. Ma quỷ xúi giục Chúa Giêsu sử dụng khả năng, uy quyền của Người theo cách thế nó bày vẽ ra và dĩ nhiên là trái với thánh ý Chúa Cha. Cái tinh xảo của ma quỷ ở chỗ nó không minh nhiên làm đổi hẳn mục tiêu mà Chúa Giêsu nhắm đến. Nó chỉ làm lệch đi một chút hoặc xúi giục Chúa Giêsu đạt đến mục tiêu theo cách thức không đẹp lòng Chúa Cha mà thôi. Chiến thuật xảo quyệt của ma quỷ lộ diện cách rõ nét qua các chước cám dỗ trong hoang mạc và những giờ trước khi Chúa Giêsu chịu tử nạn. Chiến thuật này có thể xem là chiến thuật mang tính tổng lực và toàn diện. Căn cứ vào những lời Chúa Giêsu dùng để chống trả chước cám dỗ, ta có thể thấy được các lãnh vực mà ma quỷ tấn công Người.

Chước cám dỗ về lòng mến : Một trong những sứ mạng của Chúa Kitô khi đến thế gian đó là bày tỏ cách hoàn hảo tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại. Và tình yêu ấy được biểu lộ qua chính con người, cuộc đời, những lời giảng dạy, việc làm của Đấng cứu độ, Giêsu Kitô. Ma quỷ đâu có cám dỗ Chúa Giêsu không yêu thương con người, nhưng nó cám dỗ Người yêu thương cách “phiếm diện”. Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy truyền cho hòn đá này hóa thành bánh đi. Chúa Giêsu đã đáp lại : “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” ( Mt 4,3-4 ).

Không riêng gì Kitô hữu, bà con lương dân, anh chị em khác đạo, kể cả người vô thần đều công nhận rằng người ta không chỉ sống bằng cơm bánh. Ngoài chuyện cơm áo gạo tiền thì con người cũng cần đến nhiều thứ lắm như học hành, giải trí, nghệ thuật, tâm linh… Tuy nhiên, ta cũng có thể nói ngược lại câu trích dẫn của Chúa Giêsu mà không sợ sai lầm. Người ta sống không nguyên chỉ nhờ lương thực tinh thần mà còn phải cần đến cơm bánh. Con người là hữu thể xác hồn duy nhất hay nói như các triết gia là tinh thần nhập thể. Con người lại không hiện hữu đơn độc mà còn có tính xã hội. Để sống, tồn tại và phát triển thì con người còn cần đến nhau, cần đến các cơ chế, luật lệ… Như thế để yêu thương con người cách toàn diện thì ta không chỉ nghĩ đến luơng thực vật chất hay tinh thần mà còn phải biết nghĩ đến môi trường sống của con người.

Ma quỷ thừa biết điều này và nó đã, đang cũng như sẽ mãi cám dỗ con người, đặc biệt cám dỗ Hiền Thê Đức Kitô sống tình mến cách phiếm diện. Chước cám dỗ xui khiến ta yêu nhau là chỉ giúp nhau về vật chất của cải thì chúng ta dễ nhận ra. Bởi chưng cái hậu quả của việc sa chước cám dỗ này thường nhãn tiền và dễ thấy, dễ nhận biết như chuyện đạo gạo, đạo bột bắp bột xép một thời ở Việt Nam chúng ta trước đây. Còn chước cám dỗ xui khiến ta yêu nhau là chỉ lo phần hồn, lo chuyện thiêng liêng thì quả thật ta khó nhận biết. Ngay cả với Mẹ Hội Thánh, từ thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tự do chính trị bành trướng, đã dần mất hết các quyền lực trần thế thì Hội Thánh đã tự co cụm lại trong pháo đài của mình. Chính trong hoàn cảnh này thì chước cám dỗ lại hướng mục tiêu vào ngay bản thân Hội Thánh. Bị hạn chế về các hoạt động trần thế thì ta quay về với chuyện thiêng liêng. Vì thế Hội Thánh chúng ta đã nghiêng chiều về việc chỉ lo cứu rỗi các linh hồn. Chỉ lo cứu các linh hồn hay chỉ lo chuyện thiêng liêng thì cũng là một cách sa chước cám dỗ. Nếu chỉ thương xót linh hồn thì chưa phải là yêu thương con người.

Con người không phải là linh hồn. Hơn nữa khi ta chủ trương rằng chỉ lo chuyện linh hồn thì vô tình ta rơi vào quan niệm nhị nguyên chưa kể đến chuyện đánh lận con đen, tranh tối tranh sáng, khó bề kiểm chứng. Cũng có khi vì cái cớ lo chuyện linh hồn mà ta đã thoái thác nhiều nghĩa vụ yêu thương phải thực thi theo giới luật mới mà Thầy Chí Thánh truyền dạy. Chúng ta đừng quên Chúa Giêsu đã từng cụ thể hóa luật yêu thương bằng câu chuyện người Samaritanô nhân hậu (x.Lc 10,29-37 ). Đọc Tin Mừng ta thấy rõ điều này : Chúa Giêsu trong ba năm rao giảng, công việc chính của Người là giảng dạy, chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ. Khi sai các môn sinh đi thực tập truyền giáo, Người cũng truyền cho các vị thực thi những điều ấy : rao giảng tin mừng, chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ.

Con người không chỉ sống bằng cơm bánh, con người cũng không chỉ sống bằng Lời Chúa, nhưng con người còn sống nhờ tha nhân, xã hội, các thể chế chính trị, các đường lối phát triển kinh tế, xã hội… Đã yêu con người thì cần phải quan tâm đến con người cách toàn diện. Thời gian gần đây. Hội Thánh đã có nhiều nỗ lực thể hiện sự quan tâm của mình trong các lãnh vực được gọi là trần thế như : lao động, công bình, ích chung…,đặc biệt từ sau Công Đồng Vatican II, với các hoạt động của thánh Bộ Công Lý và Hòa Bình. Tuy nhiên chước cám dỗ vẫn còn đó với nhiều Hội Thánh địa phương và có lẽ với cả Hội Thánh Việt Nam chúng ta khi mà dường như chuyện trần thế còn được xem như là không phải công việc chính của mình. Quả thật, chúng ta không thể nói mình yêu thương nhau khi ta còn hững hờ hay bỏ qua một khía cạnh nào đó trong đời sống của nhau. Những vấn đề về xã hội đã được Hội Thánh lên tiếng hướng dẫn. Nhưng thử hỏi có được bao nhiêu vị trong hàng linh mục, tu sĩ đã đọc Thông điệp Rerum Novarum của Đức Lêô XIII. Gần đây Bộ Công Lý và Hòa Bình đã tổng hợp giáo huấn của Hội Thánh về các vấn đề xã hội trong quyển “Compendium of the social doctrine of the Church” xuất bản năm 2004 thì đã được bao nhiêu người nắm được nội dung. Giới linh mục và tu sĩ còn vậy, thế thì anh chị em tín hữu giáo dân sẽ ra sao đây ?

Chước cám dỗ về Đức Cậy : “ Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” ( Mt 4,7; Lc 4,12 ). Khi nghe Chúa Giêsu dùng câu trích Lời Chúa trên đây để chống lại ma quỷ thì ta dễ nhận ra trọng tâm của chước cám dỗ là đức trông cậy. Giáo lý Công giáo dạy ta rằng có hai tội phậm đến Đức trông cậy : một là tuyệt vọng, thiếu tin tưởng vào tình thương của Chúa và hai là chỉ dựa vào sức mình hoặc quả ỷ lại vào tình thương của Chúa. ( x. GLCG chung số 2090-2091 ).

Bị cám dỗ tuyệt vọng hay thiếu tin tưởng vào tình thương của Chúa thì vẫn có đó nhưng xét cho cùng chước cám dỗ này dễ nhận ra. Chẳng biết ma quỷ có thành công nhiều trong chước mưu cám dỗ này không, còn chúng ta, chúng ta thấy trong đoàn con cái Chúa, số người tuyệt vọng không mấy nhiều, nếu xét hình thức bên ngoài. Giả như có ai đó có biểu hiện tuyệt vọng thì bà con đồng đạo sớm nhận ra ngay và dĩ nhiên là sẽ động viên giúp đỡ nhau cách này cách khác. Người rơi vào tình trạng này rất dễ nhận được sự cảm thông, thương xót của tha nhân. Chẳng hạn với các trường hợp tự vẫn thì ngày nay người ta đã xcó thái độ khoan dung hơn nhiều là nhờ biết cảm thông hơn.

Sa vào chước cám dỗ chỉ dựa vào sức riêng mình thì quả lại tai hại khôn lường. Không nguyên chỉ người Kitô hữu mà bà con lương dân, anh chị em khác đạo cũng dễ dàng thấy được cái nguy cơ của những người chỉ dựa vào sức riêng mình. Đâu phải chỉ bất cần đến sự che chở, phù trì của trời cao, những người chỉ dựa vào sức riêng mình thì bất cần cả sự giúp đỡ của tha nhân. Những người này thường hứng nhận hậu quả hay quả báo nhãn tiền ngay ở đời này. Chính vì thế chúng ta cũng dễ nhận ra chước mưu cám dỗ của quỷ ma.

Trái lại, chước cám dỗ xui khiến ta quả ỷ lại vào tình thương và quyền năng của Chúa thì thật tinh tế, xảo quyệt. Chước cám dỗ này thường xuất hiện dưới nhiều hình thức bên ngoài với dáng vẻ đạo đức, thành kính kể cả cậy trông. Khi rơi vào chước cám dỗ này đương sự khó nhận biết và tha nhân cũng khó phát hiện. Ai lại không cảm phục người tin tưởng vào quyền năng và tình thương của Chúa. Thế nhưng chính khi ta rơi vào chước cám dỗ này thì một cách nào đó ta đã thử thách Chúa là Thiên Chúa chúng ta. Bắt Chúa phải làm thay ta, giao khoán tất cả cho Chúa bằng việc phủi tay, thoái thác trách nhiệm hoặc bằng cách chỉ biết cầu nguyện, cầu xin mà thôi thì vô tình hay hữu ý ta đã để mình chiều theo chước cám dỗ lỗi đức trông cậy. Có thể xác quyết rằng những người có vẻ đạo đức, những người nhiều chức hay cao vị trong Hội Thánh rất dễ rơi vào tình trạng này. Và cái nguy hiểm lớn nhất đó là những người đang ở trong chước cám dỗ này lại chẳng biết, chẳng hay. Và rồi người ta có cớ để ẩn mình trong thái độ thụ động, thiếu dấn thân, không dám quên mình.

Người biết sống Đức Cậy không phải là chỉ biết chuyên chăm cầu nguyện và đọc kinh Lạy Cha, nhưng còn phải biết tận dụng những hồng ân Chúa ban là các khả năng trí khôn, sức khỏe, thời giờ, tiền bạc…để làm cho Danh Chúa được cả sáng, Nước Chúa trị đến, Ý Chúa được thể hiện…

Chước cám dỗ về Đức Thờ Phượng : “ Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người thôi” ( Mt 4, 10; Lc 4,8 ). Mẹ Hội Thánh dạy ta : “Hành vi đầu tiên của nhân đức thờ phượng là là thờ lạy Thiên Chúa, nghĩa là nhận biêt Người là Thiên Chúa, Là Đấng Sáng Tạo và Cứu Chuộc, là Chúa và là Thầy của mọi loài, là Tình Yêu vô biên và giàu lòng thương xót…Thờ lạy Thiên Chúa là tôn kính và tuyệt đối thần phục Người vì nhận biết “tính hư không của thụ tạo”, biết sự hiện hữu của chúng hoàn toàn nằm trong tay Người…Việc thờ lạy Thiên Chúa duy nhất, giải thoát con người khỏi thái độ khép kín, khỏi nô lệ tội lỗi và sự sùng bái thế giới ngẫu tượng.” ( GLCG chung sô 2096-2097 ).

Sùng bái các loài thụ tạo, suy tôn các thế lực thụ tạo chính là hành vi lỗi phạm đến đức thờ phượng. Một trong những chước cám dỗ ma quỷ xúi giục Chúa Giêsu năm xưa cũng như xúi giục Hiền Thê của Người qua mọi thời là tin vào quyền năng của các thế lực thụ tạo. Lịch sử Hội Thánh một cách nào đó cho ta thấy ảnh hưởng của chước cám dỗ. Kể từ năm 313 với sắc chỉ Milan, Hội Thánh mẹ dường như thấy được sự hữu hiệu của thế lực trần thế nên đã có phần cậy dựa vào nó. Không chỉ cậy dựa mà có khi Hội Thánh còn lợi dụng thế quyền cho việc đạo và có khi chính mình hành xử như một thế lực trần tục. Với sự trở lại của Vua Clovis năm 498 khiến cho toàn dân nước Pháp bấy giờ cùng theo đạo thì chước cám dỗ như tăng phần mãnh lực. Để có hiệu năng, có thành quả lớn trong việc thiêng thánh thì người ta cũng dễ bị cám dỗ thỏa hiệp cách nào đó với các thế lực thụ tạo, và ta đã sùng bái thụ tạo cách vô tình chẳng hay. Rồi những cuộc thánh chiến, những lần theo đoàn viễn chinh để đi truyền giáo phải chăng không cho ta thấy sự cậy dựa của ta vào các mãnh lực trần thế này ? Nói rằng chúng ta đã suy tôn chúng thì quả là hàm hồ nhưng xem chúng là một trong những động lực chính của sự thành công thì dường như không sai.. Chuyện “xì căng đan” của hàng giáo sĩ Hội Thánh Ba Lan đang là chuyện thời sự và cũng là bằng chứng về sự hiện hữu của chước cám dỗ tinh vi và độc hại này.

Đến khi không nắm được các thế lực trần gian thì chúng ta lại rơi vào việc tự thần thánh hóa chính mình. Hội Thánh là một xã hội hoàn hảo. Cái khái niệm này đã từng kéo dài cho đến Công Đồng Vatican II. Mình không thể sai lầm, chỉ có mình mới nắm giữ chân lý cũng là một trong những cách thế đặt mình thành ngẫu tượng. Chước cám dỗ ấy còn len lõi vào trong cung cách sống đạo. Một số anh em luơng dân hay bà con khác đạo nghĩ rằng “cứ nói nhiều là sẽ được nhận lời” ( Mt 6,7 ). Nghĩa là khi đã thực hiện đủ một số công thức, kinh kệ nào đó thì thần minh phải thực hiện điều mình muốn. Bắt Thiên Chúa tự động ( automatic ) thực hiện điều mình quy định hay kiểu thức mình đặt ra đúng là một cám dỗ lỗi đức thờ phuợng tinh tế. Chước cám dỗ kiểu dạng ma thuật vẫn có đó trong các cử hành bí tích, á bí tích. Nếu không tỉnh táo, cẩn mật đề phòng thì cả đến đấng bậc được xem là có thánh chức cũng sa vào.

Điều quan trọng là xem xét thánh ý Chúa. Chúa có muốn ta làm điều này trong hoàn cảnh này hay không. Nếu ỷ lại vào các quy chế do chính chúng ta đặt định để cho rằng mình có quyền ban ân lộc thánh thiêng thì cũng là một cách ngẫu tượng hóa bản thân. Ngẫu tượng hóa bản thân thì vẫn còn dễ nhận biết, nhưng ngẫu tượng hóa tập thế hay cơ chế thì khó phát hiện. Tôn vinh một cơ chế nào đó, một tập thể nào đó lên hàng muôn năm, lên hàng bất diệt là sa vào chước cám dỗ là thờ ngẫu tượng. Chước cám dỗ xưa đã khuất phục tổ tiên chúng ta nay như mãi đeo đẳng con cái loài người, kể cả Hiền Thê Đức Kitô.

Cơn cám dỗ cuối cùng : Ở đây, tôi không chủ ý nói đến cuốn tiểu thuyết “Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Kitô” ( The last temptation of Christ ) của nhà văn Hy Lạp Nikos Kazantkasis. Tuy nhiên, đọc Tin Mừng chúng ta phải chân nhận rằng quảng thời gian Chúa Kitô bị cám dỗ quyết liệt nhất đó là những giờ trong vườn dầu và trên cây thập giá. Có lẽ viễn ảnh khổ giá là một thử thách to lớn đối với Chúa Giêsu. Thế nhưng trong thời gian rao giảng, Người đã thoáng hình dung khổ hình thập giá sẽ chịu. Theo tôi, điều cám dỗ Chúa Giêsu nặng nề nhất đó là sự thất bại, mất cả chì lẫn cả chài,“xôi hỏng, bỏng tay”. “Êlôi, Êlôi, lamasabacthani ! Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con !” ( Mc 15,34 ).

Chước cám dỗ về hiệu năng, nhìn thấy kết quả trước mắt là chước cám dỗ phổ biến nơi nhiều người, cách riêng với những ai có chút tài và chút tâm. Dẫu biết rằng “thất bại là mẹ thành công” nhưng cũng thật khó lòng đón nhận thất bại cách thanh thản, nhất là khi vì sự thất bại ấy mà ta dường như mất tất cả. Đã làm điều gì đó thì ai cũng mong sẽ thành công, sẽ đạt kết quả. Chính vì thế, ma quỷ khôn ranh cho ta thoáng thấy sự uổng công, sự thua cuộc và cả sự thất bại để rồi ta e ngại, ta dừng bước, ta khoanh tay. Đứng trước tình trạng nhiễu nhương của xã hội hôm nay, của tình cảnh nước nhà, của đời sống Hội Thánh, rất nhiều người có chút tâm và chút tài đã ngần ngại, e dè vì thoáng thấy sự thất bại trước mắt. Một con chim én khó có thể và như không thể làm nên mùa xuân. Và số phận của nó chắc gì còn cánh, còn lông ! Không chừng còn bị chê bai là thiếu khôn ngoan, là nóng vội, là bốc đồng, là hiếu thắng. Có khi lại bị quy chụp là phản động, là rối đạo. Và khi đã bị thua cuộc thì rất có thể bị dè bỉu rằng nếu nó làm đẹp lòng Chúa thì Chúa phải bênh đỡ nó chứ ! ( x.Mt 27,39-44 ).

Đã không thành công lại còn có thể mất thanh danh, mất chức vị, quyền hạn… thì thật là điều khó vượt qua. Dù rằng đã phải khuất phục trước Chúa Kitô, trước các thánh tử đạo… nhưng ma quỷ cũng đã nhiều lần thành công trong chước cám dỗ này với Hiền Thê của Người theo dòng lịch sử. Cơn cám dỗ cuối cùng luôn có đó với từng người chúng ta. Mùa chay thánh lại về, theo lời mời gọi của Vị Cha chung Hội Thánh, Đức Bênêđictô, chớ gì ta chuyên chăm ngắm nhìn thập giá mà học biết yêu thương trong sự can đảm chết đi để được phục sinh, can đảm đón nhận sự thất bại để cùng chiến thắng với Người.

Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ : một lời cầu xin mãi luôn mang tính hiện sinh và cảnh tỉnh chúng ta, mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh. Cầu xin là để nhận biết chước cám dỗ mà xa lánh hay đề phòng, nhất là để biết cách thế chống trả hữu hiệu.

Thuận Hiếu – Ban Mê Thuột