Chương I. Lanciano (Thế kỷ thứ tám)



Một phép lạ cổ xưa

Tên của thị trấn xinh xắn của 35 ngàn cư dân này, thuộc tỉnh Chieti vùng Abruzzo “mạnh mẽ và dịu hiền”, có liên hệ mật thiết với một trong những phép lạ Thánh Thể quan trọng nhất. Lanciano quả tình là nơi diễn ra một trong các phép lạ Thánh Thể cổ xưa nhất mà thánh tích vẫn còn được bảo tồn cho đến nay. Nó cổ xưa đến mức tài liệu lịch sử chính xác về sự kiện ban đầu đã bị thất lạc qua nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, cư dân Lanciano đã cố gắng không đánh mất nguồn gốc của phép lạ này cho đến thời hiện đại thông qua truyền khẩu và lòng sùng kính rất mạnh mẽ không gián đoạn.



Chính xác thì chuyện gì đã xảy ra? Chuyện kể lại, một đan sĩ Dòng Thánh Basil đang cử hành Thánh lễ ở Lanciano tại nhà thờ kính các thánh Legonziano và Domiziano trong khoảng thời gian từ năm 700 đến 750 sau Công nguyên. Ở Hy Lạp và Đông Byzantine, các đan sĩ dòng Thánh Basil tuân theo Luật của Thánh Basil, theo linh đạo của các giáo phụ Sa mạc và cách riêng Thánh Antôn ẩn tu. Giữa năm 600 và 700 sau Công nguyên, nhiều đan sĩ Dòng Thánh Basil đã chạy trốn khỏi cuộc đàn áp, phần lớn bởi người Ba Tư hoặc bởi chính hoàng đế Byzantine, nếu ông ta là một người bài trừ ảnh tượng, và tìm nơi ẩn náu ở Ý. Ở Lanciano, một trong những đan sĩ này, tên không được truyền lại, đang cử hành Thánh lễ. Tôi xin trích dẫn một bản thảo năm 1631, viết bằng một thứ tiếng Ý phẩm chất cao 9 trăm năm sau phép lạ, đã giải thích các biến cố một cách rõ ràng:

“Tại thành phố này, trong đan viện Thánh Legonziano, nơi các Đan sĩ dòng Thánh Basil sống vào khoảng bảy trăm năm sau Công Nguyên, có... một đan sĩ, không kiên định lắm với đức tin của mình, được giáo dục tốt về khoa học thế gian, nhưng không biết gì về Thiên Chúa, sống ngày qua ngày với sự nghi ngờ liệu Mình Thánh Chúa Kitô có ở trong Mình Thánh đã truyền phép hay không và Máu Thật có ở trong rượu nho.

Tuy nhiên, không bao giờ bị ân sủng Chúa bỏ rơi trong việc cầu nguyện liên lỉ, ngài tiếp tục cầu nguyện với Thiên Chúa xin Người chữa lành vết thương này trong trái tim mình.
.............

Do đó, vào một buổi sáng, giữa Hy Lễ của mình, sau khi thốt ra những lời truyền phép thánh thiêng nhất, trong lúc hơn bao giờ hết đang vướng vào lỗi lầm cũ của mình, ngài thấy (Ôi ân huệ kỳ diệu và độc nhất vô nhị!) Bánh đã biến thành Thịt và Rượu biến thành Máu....

Đây là Thịt và Máu của Chúa Kitô yêu dấu nhất của chúng ta.

Nghe những lời này, những người lo lắng vội vàng chạy đến Bàn thờ và kinh hoàng, không khỏi rơi nước mắt, bắt đầu lớn tiếng cầu xin lòng thương xót”.

Sau nhiều thế kỷ, không trải qua bất cứ diễn trình phân hủy nào - mà hiển nhiên trong chính nó đã là một sự kiện mầu nhiệm - một thánh tích kép đã được truyền lại cho chúng ta gồm

• một mô thịt tròn, màu nâu sẫm và hơi vàng, đường kính khoảng 6 cm, dày hơn về phía mép và mỏng dần về phía trung tâm thành một khoang lớn ở giữa
• năm mảnh máu đông thành cục rắn có thể tích không đều nhau, màu vàng nâu, nặng tất cả 16 gram

Hiện tại, thánh tích được chứa đựng và niêm phong trong một mặt nhật đôi màu bạc trang nhã được chế tác vào năm 1713, cho phép nhìn toàn cảnh những vật quý giá bên trong qua một cửa sổ và một chiếc chén pha lê. Chúng được lưu giữ trong một chiếc hộp bằng đá cẩm thạch trên bàn thờ chính trong nhà thờ Thánh Phanxicô, dưới sự trông coi của các Tu sĩ Hèn mọn ngành Tu viện [Conventional].

Trong bóng tối tám thế kỷ

Hiện nay chưa có tài liệu lịch sử đáng tin cậy nào về nguồn gốc của những thánh tích này. Văn bản viết đầu tiên minh nhiên đề cập đến một phép lạ Thánh Thể được bảo tồn ở Lanciano chỉ có từ năm 1574, trong cuộc duyệt xét đầu tiên của Giáo hội về chính các thánh tích, theo yêu cầu của Đức Tổng Giám Mục Antonio Gaspar Rodriguez. Giacomo Fella, một nhà sử học xuất thân từ Lanciano, vào năm 1620 đã viết về lời tuyên thệ mà ông nhận được từ hai tu sĩ viện tu của Lanciano, Cha Antonio Scarpa và Cha Angelo Siro. Cả hai nhớ lại sự hiện hữu, khoảng sáu mươi năm trước, của một cuốn sách viết tay kiểu chữ Gothic tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh và được bao phủ bởi hai tấm bảng nhỏ, cuốn này chắc chắn có tính chất quyết định trong việc xác định nguồn gốc và niên đại của phép lạ.

Vâng, cuốn sách viết tay đã được trình bầy một cách tốt đẹp cho hai đan sĩ dòng Thánh Basil đi ngang qua trú ngụ tại Lanciano. Kể từ thời Con ngựa thành Troy, người ta khuyên không nên tin tưởng người Hy Lạp! Tôi chỉ nói đùa thôi, nhưng ngày hôm sau, vào sáng sớm, hai tu sĩ dòng Thánh Basil đã vĩnh viễn biến mất mà không nói lời từ biệt, cùng với họ cuốn sách quý giá cũng biến mất, cuốn sách vốn đề cập đến một người cùng dòng cũ của họ mà sự thiếu niềm tin đã làm hoen ố danh thơm tiếng tốt của dòng.

Vì vậy, cuốn sách viết tay theo phong cách Gothic không còn hiện hữu và lời khai có công chứng xác nhận hành vi trộm cắp cuốn sách cũng không còn nữa, điều mà nhà sử học Fella đã khuyến nghị nên được viết ra làm bằng chứng cho hành vi trộm cắp.

Truyền thống truyền miệng về sự kiện xa xưa đã được viết thành văn bản trong tài liệu tao nhã năm 1631 mà tôi đã trích dẫn, hoặc được khắc trên đá trên một tượng đài cùng năm, nhưng tám thế kỷ đầu tiên kể từ phép lạ Lanciano vẫn là một “lỗ đen” đối với các nhà sử học. Đúng là một lỗ đen, nhưng vẫn được thắp sáng bởi các tài liệu được lưu trữ chứng tỏ sự quan tâm hội tụ mạnh mẽ của các tu sĩ dòng Phanxicô, các giáo sĩ giáo phận, các hội huynh đệ của cả nhà thờ cổ Thánh Legonziano, nơi phép lạ đã xảy ra, và gần đây hơn là nhà thờ Thánh Phanxicô được xây dựng vào năm 1258 trên đỉnh nhà thờ Thánh Legonziano, nơi sau này các thánh tích được di chuyển—một mối quan tâm chung đã gây ra căng thẳng và tranh chấp, thậm chí đến mức các sắc lệnh của giáo hoàng được đưa ra để xác nhận quyền giám hộ quần thể hai nhà thờ Thánh Legonziano và Thánh Thánh Phanxicô (và do đó nội dung quý giá, nhưng chưa bao giờ được đề cập đến).

Khoảng thế kỷ 11, một cuộc tranh luận thần học nảy sinh trong Giáo hội về sự hiện diện của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể; nó dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ các chuyên luận đặt nền móng cho định nghĩa dứt khoát sau này về khái niệm biến thể [transubstantiation]. Điều này nói đến sự biến đổi bản thể của bánh và rượu thành bản thể của Mình và Máu Chúa trong Thánh lễ vào lúc truyền phép, mặc dù vẫn ở dưới hình bánh và rượu hữu hình.

Một đóng góp thần học quan trọng đã được cung cấp vào năm 1073 bởi Guitmund thành Aversa, một tu sĩ Norman, người đã viết cuốn De corporis et sanguinis Christi veritate in Eucharistia (Về sự thật về Mình và Máu Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể). Trong một đoạn văn của cuốn sách này, ngài nhắc đến một phép lạ mà ngài đã được người thầy và người bạn Lanfranc ở Pavia kể lại. Khi còn thơ ấu, Lanfranc đã nghe nói rằng ở Ý “một phép lạ đã xảy ra trong tay một linh mục, người khi cử hành Thánh lễ đã nhìn thấy Mình Thánh thật trên bàn thờ và Máu thật trong chén thánh. Ngài sợ phải tiêu thụ chúng nên đã cầu cứu vị giám mục để xin lời khuyên. Đức Giám Mục, cùng với các Giám mục đồng sự đến chứng kiến sự kiện, đã lấy chén đựng Mình và Máu, cẩn thận niêm phong và đặt ở giữa bàn thờ để nó được bảo quản vĩnh viễn trong số những thánh tích quan trọng nhất.” Cha Nicola Petrone, người gần đây đã nghiên cứu lịch sử của phép lạ, tin rằng phép lạ mà Lanfranc đề cập đến chính là phép lạ ở Lanciano, không giống bất cứ phép lạ nào khác được chúng ta biết đến từ đầu thời Trung cổ ở Ý vì nó hoàn toàn trọn vẹn và đã tồn tại qua rất nhiều thế kỷ.

Cuộc thanh tra năm 1574

Kể từ năm 1574, các mô tế bào lạ lùng đã được kiểm tra gần như mỗi thế kỷ, được ra lệnh hoặc bởi thẩm quyền Giáo Hội hoặc bởi thẩm quyền Dòng Phanxicô. Lần kiểm tra đầu tiên, vào năm 1574, chắc chắn nên được ghi nhớ: các mặt nhật được mở ra trước mặt mọi người, và các thánh tích được kiểm tra và cân nặng. Nhân dịp này, một sự kiện mầu nhiệm đáng nhớ đã diễn ra: năm cục máu, có kích thước khác nhau rõ ràng khi nhìn bằng mắt thường, hóa ra lại có trọng lượng giống hệt nhau trên bàn cân. Không những vậy, khi tất cả các cục máu đông được cân cùng một lúc thì chúng vẫn nặng như từng cục máu đông riêng lẻ.

Viết điều này vào năm 2016, tôi tin vào trí thông minh của tổ tiên mình và phải đề phòng chống lại việc chế nhạo họ, vì họ đã giỏi hơn tôi rất nhiều trong việc đối diện với những cuộc sống khó khăn hơn nhiều bằng lòng dũng cảm và sức mạnh đạo đức. Hoàn toàn tình cờ mà cha và ông tôi sinh ra ở Atessa, một thị trấn giáp ranh với Lanciano. Tên họ của tôi cũng bắt nguồn từ đó, và tôi thậm chí không thể loại trừ khả năng một trong những tổ tiên của tôi có thể đã có mặt ở Lanciano vào ngày hôm đó. Nếu phép lạ có cùng một trọng lượng như nhau này không xảy ra ngày nay, thì thậm chí nó còn ít xảy ra hơn vào năm 1574, khi những dụng cụ như vậy còn được sử dụng phổ biến nhiều hơn. Làm sao người ta có thể phạm sai lầm khi sử dụng cân, đặc biệt là trong thời điểm quan trọng như vậy và trước mặt toàn thể đồng bào? Là một người Công Giáo Rôma, tôi tin vào những điều “đáng kinh ngạc” hơn nhiều, và tôi không hiểu tại sao tôi lại không nên ghi công có lẽ cho một trong những tổ tiên của tôi đã kể cho tôi nghe về một sự kiện mầu nhiệm mà ngài đã đích thân chứng kiến. Ngoài ra, ý nghĩa thần học của biến cố này rõ như pha lê: mỗi giọt rượu nhỏ nhất đã truyền phép đều chứa đựng trong tính toàn thể của nó bản thể trọn vẹn và không thể phân chia của Máu Chúa chúng ta; giọt nhỏ nhất, cũng như chén đầy rượu chứa Đấng mà cả vũ trụ không thể chứa đựng được. Năm 1563, Công đồng Trent vừa kết thúc, sau khi xác định tín điều về sự biến thể: Thiên đàng một lần nữa truyền tải một dấu hiệu rõ ràng từ Lanciano.

Trong những lần kiểm tra tiếp theo, điều kỳ diệu như vậy đã không còn xảy ra nữa. Thí dụ, vào năm 1886, trọng lượng của năm mảnh máu lên tới 8.00, 2.45, 2.85, 2.05 và 1.15 gram, bên cạnh 5 miligam mảnh đã nghiền thành bột.

Năm 1809, luật tự do, bình đẳng và tình huynh đệ của Napoléon cũng đã đến Lanciano: tu viện Thánh Phanxicô bị đóng cửa và biến thành doanh trại, chín tu sĩ mất tích, và phòng ăn trở thành tòa thị chính. Trong một thời gian, một phần của tu viện cũ thậm chí còn dùng làm nhà nghỉ của Tam Điểm. Nhà thờ Thánh Phanxicô trở thành nhà thờ giáo xứ. Với trật tự được tái lập trong thời kỳ khôi phục chế độ quân chủ, chỉ trong thế kỷ tiếp theo mới có điều kiện thích hợp một lần nữa để các tu sĩ Dòng Phanxicô viện tu quay trở lại Lanciano vào năm 1952.

Cuộc thanh tra năm 1970

Sau này, vào những năm 1960, có lẽ người ta đã cảm nhận được bầu không khí trong trẻo của Công đồng Vatican II. Sự không chắc chắn về nguồn gốc xa xôi của báu vật của họ - phần nào bị thất lạc trong thời kỳ đầu Trung cổ đầy sương mù - bắt đầu đè nặng lên các tu sĩ dòng Phanxicô. Họ bắt đầu nghĩ tới việc lên kế hoạch cho một cuộc kiểm tra mới và hiện đại về tính chất khoa học vững chắc. Đức Tổng Giám Mục Pacifico Perantoni, cũng là một tu sĩ dòng Phanxicô, lúc đầu do dự nhưng sau đó đã tự thuyết phục được chính ngài. Cần có một nhà nghiên cứu để thực hiện công việc phân tích: một chuyên gia trong lĩnh vực khoa học đồng thời là một trong những người có tư cách đạo đức cao nhất. Người đó là Giáo sư Odoardo Linoli, 48 tuổi, một nhà nghiên cứu bệnh học giải phẫu và là người đứng đầu bệnh viện “Spedali Riuniti” ở Arezzo.

Sáng ngày 18 tháng 11 năm 1970, lúc 10:15 trong phòng áo của nhà thờ Thánh Phanxicô, vị tổng giám mục đã phá các niêm phong năm 1886 và, trước sự chứng kiến của nhiều nhân chứng, đã mở mặt nhật trên một chiếc bàn phủ “vải lanh trắng”. Trong một buổi lễ cảm động, Giáo sư Linoli đã xin Đức Tổng Giám Mục “được phép chạm vào” Thịt, và Đức Giám Mục đã đồng ý. Kết cấu cứng, gần giống như gỗ. Hộp chứa Thịt rõ ràng là không kín khí: mô của Thịt phủ đầy vết trắng, khô, dễ bong ra. Những vết nhơ này là nấm mốc chứ không phải tinh bột như được xác định ngay dưới kính hiển vi.

Ngoài ra còn có tàn dư của côn trùng nhỏ và giòi. Đó là một khoảnh khắc chán nản được mô tả bởi thư ký, Cha Castiglione, trong báo cáo của cha: “Sau khi kiểm tra mô của Thịt, Giáo sư Linoli bày tỏ lo ngại rằng không thể nhận diện được các yếu tố có giá trị để đưa ra các kết luận khoa học thông qua các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Ông đưa ra giả thuyết cho rằng mô Thịt đã thiếu tất cả các nét tạo nên đặc tính.” Vầng trán nổi bật của giáo sư bắt đầu lấm tấm mồ hôi. Sau đó ông xin phép Đức Tổng Giám Mục “được phép thu thập một vài mảnh nhỏ,” và vị giám mục đã đồng ý. Bằng cách dùng kéo áp dụng một lực rất lớn, ông đã cắt hai mẫu rất nhỏ ở mép, tổng cộng là 20 miligram mô tế bào.

Rồi đến lúc dành cho Máu: năm cục, không bị gây ô nhiễm, có kết cấu cứng và đồng nhất. Một đề xuất đã được đưa ra là cân các cục máu đông một cách riêng biệt sau đó cùng với nhau, y như vào năm 1574. Cán cân không có trong số các dụng cụ có sẵn, vì vậy một người đã mượn một chiếc từ hiệu thuốc địa phương. Tổng trọng lượng là 15.85 gram và đương nhiên mỗi cục máu đông có trọng lượng khác nhau. Linoli sau đó xin phép Đức Tổng Giám Mục được “thử mẫu một mảnh nhỏ,” và một lần nữa, vị giám mục đã đồng ý. Mảnh tách ra nặng 318 miligram. Cuộc kiểm tra đã kết thúc. Lúc đó, chính các tu sĩ cảm thấy nản lòng: “Các tu sĩ chúng tôi, rất ngạc nhiên, nhìn nhau chằm chằm. Vẻ mặt của mọi người đều bộc lộ sự thất vọng và vỡ mộng không thể nhầm lẫn.” Một nhân chứng đã viết: “Có lẽ do công hay lỗi của chúng tôi mà phép lạ Thánh Thể Lanciano đã kết thúc. Chúng tôi đang giả vờ bình tĩnh mặc dù sâu bên trong chúng tôi vô cùng e ngại và đã mong chờ điều tồi tệ nhất.”

Sau khi trở về Arezzo, Giáo sư Linoli đã thực hiện một loạt các thử nghiệm căn bản trong hàng trăm ngày tiếp theo: đó có thể là những thử nghiệm đáng lưu ý nhất trong cuộc đời ông. Như được chép trực tiếp từ bài báo ông xuất bản năm sau trên Quaderni Sclavo, các thử nghiệm của ông nhằm mục đích:

* xác định cấu trúc mô học của mô cứng như gỗ được lưu truyền như Thịt
* xác định xem liệu chất cứng, như đá, giống như đất sét được truyền lại là “Máu” có thực sự được coi là máu
* xác định xem Thịt và Máu thuộc về chủng loại sinh học nào
* xác định nhóm máu của cả hai mô
* điều tra các thành phần protein và khoáng chất của Máu

Công việc không hề dễ dàng. Cấu trúc mô học cần được giải thích: nhân tế bào không bị nhuộm bằng thuốc nhuộm thông thường, cũng như không có bất cứ đường vân [striation] ngang tăng cường nào (mặc dù điều này được mong đợi ở một mô được bảo quản lâu năm). Vì vậy, Linoli đã nhờ đến sự trợ giúp thêm từ Giáo sư Ruggero Bertelli để xác nhận rằng mô cơ có nguồn gốc từ tim.

Không có tế bào hồng cầu hoặc bạch cầu nào trong mẫu máu và một số kết quả xét nghiệm không đưa đến kết luận nào. Những xét nghiệm khác cần các thích nghi trong quy trình phân tích để tính đến tính chất độc đáo của mẫu cổ và có độ mất nước cao.

Tuy nhiên, từng bước một, với sự kiên nhẫn và bền bỉ, một kết quả trọn vẹn và đáng kinh ngạc đã bắt đầu thành hình, có lẽ ngoài sự mong đợi của mọi người. Trong hai dịp, Giáo sư Linoli cảm thấy cần phải dự ứng và chia sẻ sự hài lòng của mình về kết quả sơ bộ của mình với các tu sĩ Lanciano. Ông đã viết hai tin nhắn điện báo. Vào ngày 11 tháng 12 năm 1970, ông viết: “In principio erat Verbum, et Verbum caro Factum est”, trích dẫn từ lời mở đầu của Tin Mừng Thánh Gioan: “Ban đầu có Ngôi Lời, và Ngôi Lời đã trở thành xác thịt”. Nếu văn phong là điều xác định ra một con người, thì văn phong của ông tuy cần phải ở dưới dạng điện tín, vẫn đã làm ấm lòng rất nhiều những tâm hồn đang run sợ của các tu sĩ Phanxicô vào chính mùa Giáng Sinh ấy. Một lần nữa, vào ngày 11 tháng 2 năm 1971, ông viết: “Nghiên cứu sâu hơn cho phép xác nhận sự hiện diện của cơ vân tim. Alleluia.”

Vào ngày 4 tháng 3 năm 1971 - một trong những ngày lạnh nhất thế kỷ ở Ý - Giáo sư Linoli đã hoàn thành một báo cáo khoa học ở Lanciano phủ đầy tuyết. Nó tóm tắt các điểm sau:

1. Máu trong phép lạ Thánh Thể là máu thật và Thịt là thịt thật.
2. Thịt được làm từ mô cơ tim.
3. Máu và Thịt thuộc về chủng loại người.
4. Nhóm máu là AB và đồng nhất trong Máu và Thịt: do đó, rất có thể, cả hai đều thuộc cùng một Người.
5. Protein máu có thể được phân tách theo tỷ lệ của máu tươi bình thường.
6. Khoáng chất clorua, phốt pho, magnesium, kali và natri được phát hiện với số lượng giảm trong máu, trong khi canxi lại dư thừa (2).

Những chi tiết kỹ thuật hơn (mà chúng tôi sẽ xem xét cẩn thận trong một số chương sau: Tim, Máu và Nhóm máu AB) đã trở thành chủ đề của một ấn phẩm khoa học thấu xuốt kèm theo bằng chứng hình ảnh phong phú: một bằng chứng hoàn hảo, thậm chí theo tiêu chuẩn hiện đại.

Ngoài những kết luận nêu trên, Giáo sư Linoli còn đề cập đến những điều sau:

• Cấu trúc của Thịt không phù hợp với giả thuyết về một mẫu vật “giả” được chế tạo một cách ác ý trong các thế kỷ trước: chỉ có một bàn tay rất thành thạo trong việc mổ xẻ giải phẫu mới có thể cắt tiếp tuyến xuyên qua bề mặt của một cơ quan rỗng một cách gọn gàng như vậy để có được một mặt cắt ngang mỏng hoặc “lát cắt” từ một quả tim của người chết (được suy ra từ đường đi chủ yếu theo chiều dọc của các bó sợi cơ nhìn thấy trong các mẫu mô học).

• Các mẫu vật - đặc biệt là Máu - sẽ nhanh chóng bị thối rữa nếu có nguồn gốc từ một xác chết.

• Tuy nhiên, không phát hiện thấy muối bảo quản trong các mẫu mô.

Ba mươi năm sau, khi được phỏng vấn tại nhà ông ở Arezzo tháng Ba năm 2001 bởi Mike Willesee và Ron Tesoriero (người mà chúng ta sẽ chính thức gặp trong chương nói về Buenos Aires), Linoli thẳng thắn thú nhận rằng sau thời điểm đạt được những kết quả này, “trong vài tháng [ông] cảm thấy như thể [ông] đang đi cách mặt đất ba mươi cm”.

Thanh tra bổ sung năm 1981

Trong thập niên sau cuộc thanh tra năm 1970, các tu sĩ dòng Phanxicô đã yêu cầu Giáo sư Linoli nghiên cứu sâu hơn về Thịt lạ lùng, cả về mặt vĩ mô lẫn vi mô. Do đó, ông đã lấy các phần mô học mới (3) được lấy từ một mảnh nhỏ không được sử dụng vào năm 1970 và vẫn được bảo quản ở Lanciano.

Trong các slide kính hiển vi mới, cấu trúc cơ tim [myocardial] (4) của các sợi cơ thậm chí còn được mô tả rõ ràng hơn. Hơn nữa, có thể nhìn thấy các chi tiết cấu trúc mới và nguyên khởi: màng trong tim [endocardium], lớp lót bên trong của tim, cũng như các vùng mô mỡ [adipose] (5); các mạch máu động mạch và tĩnh mạch và thậm chí cả bó sợi thần kinh phế vị [vagus] (6) có thể được đánh giá. Đó là một loạt các phát hiện vi mô - nhìn tổng thể - phác họa nên bức tranh của một trái tim con người hoàn chỉnh.

Nghiên cứu vĩ mô cũng gây ngạc nhiên. Tập chú của Linoli là mười bốn lỗ tròn nhỏ được đục dọc theo toàn bộ mép ngoài của thánh tích, như thể, trong một quá khứ xa xôi, cần phải giữ cố định Thịt bằng mười bốn chiếc đinh đóng vào một giá đỡ bằng gỗ để chống lại sự co rút và co lại của xác chết cứng đờ [rigor mortis] (7). Do đó, Thịt sẽ co rút về phía các đinh bên ngoài, tạo ra khoảng trống hiện có ở giữa. Tuy nhiên, theo giáo sư, khoang này cũng đã hiện hữu một phần từ trước. Do đó, cho đến ngày nay, thánh tích này về mặt vĩ mô vẫn giống một mặt cắt ngang hoàn chỉnh của tim, hoặc có thể là một mặt cắt ngang ngay qua tâm thất trái (8).

Giáo sư Linoli đã thêm một quan sát sâu sắc cuối cùng: nếu Thịt được chúng ta tôn thờ ngày nay đã trải qua tình trạng xác chết cứng đờ, thì rõ ràng vào thời điểm xảy ra phép lạ ban đầu, nó vẫn còn sống. Trên thực tế, tình trạng xác chết cứng đờ bắt đầu từ một đến ba giờ sau khi chết và kết thúc vào khoảng 36 đến 48 giờ sau đó.

Ông thực sự tiếp tục suy tư về điều này trong những năm tiếp theo, và vào dịp kỷ niệm 20 năm cuộc thanh tra, ông cảm thấy muốn tiết lộ một khía cạnh vĩ mô của Thịt mà trước đây ông đã bỏ lỡ: Một mặt cắt ngang toàn bộ trái tim thực sự có thể được nhận ra trong kết cấu tổng thể của Thịt lạ lùng. Phần còn lại của tâm thất trái có thể được nhìn thấy ở phần dưới dày hơn trong khi phần trên mỏng hơn là tâm thất phải. Thời gian đã làm mất đi các bộ phận giải phẫu như vách liên thất, vốn chia cắt hai tâm thất về mặt sinh lý học, do đó chỉ còn lại một khoang duy nhất. Sự mất nước và quá trình ướp xác tự phát đã làm giảm kích thước vì kích thước hiện tại nhỏ hơn kích thước của một trái tim sống.

Do đó, Thịt ở Lanciano bắt đầu giống với hình ảnh mà bác sĩ tim mạch hình dung trên màn hình siêu âm: đó là một hình ảnh trục ngắn cạnh xương ức, (9) thu được như thể “cắt” tim một cách lý tưởng dọc theo trục phía trước. Tâm thất trái và phải sau đó sẽ được nhìn thấy cạnh nhau, đập với nhau và duy trì hình dạng hình trứng.

Tiêu chuẩn khoa học

Như đã nêu, các cuộc điều tra của Giáo sư Linoli hoàn hảo về mặt khoa học. Bản báo cáo này cực kỳ chi tiết và mô tả các tài liệu cũng như phương pháp: những tài liệu và phương pháp cập nhật nhất và đã được xác thực vào thời điểm đó. Ông không giấu giếm những khó khăn mình gặp phải (chẳng hạn như kết quả âm tính của xét nghiệm về máu và những hợp chất có chứa những chất có nitơ như protein [hemochromogen] (10) và trung thành tuân thủ các mục tiêu mà ông đặt ra khi bắt đầu nghiên cứu.

Bất cứ khi nào có thể về mặt phương pháp, ông đều đưa ra các mẫu đối chứng (chẳng hạn như máu người hoặc động vật, hoặc các tờ giấy thấm chưa qua xử lý) để làm nổi bật tính đúng đắn của phương pháp và nâng cao giá trị của kết quả. Bằng chứng hình ảnh của ông rất đầy đủ.

Có điểm yếu nào không? Toàn bộ cuộc điều tra được thực hiện bởi một mình Giáo sư Linoli. Không có ủy ban giám sát: ông lấy các mẫu và chỉ có ông và ông phân tích chúng.

Ngày nay, chắc chắn chúng ta sẽ tổ chức một chuỗi giám sát các mẫu vật, thậm chí có thể quay video những khoảnh khắc quan trọng nhất của nó và nghiên cứu sẽ được thực hiện bởi nhiều chuyên gia. Giám sát lẫn nhau sẽ loại bỏ nguy cơ gian lận. Thậm chí tốt hơn nữa, các phương pháp dấu tung tích[blinding] sẽ được áp dụng cho các thí nghiệm, chẳng hạn như không tiết lộ nguồn gốc của mẫu cho các nhà nghiên cứu. Chúng ta sẽ thấy rằng đây là thủ tục được Bác sĩ Castañón thực hiện ở Buenos Aires vào năm 1999 và ở Tixtla vào năm 2009. Sự tín thác đặt vào tính chính trực của Giáo sư Linoli là một phần trong quyết định tan nát cõi lòng của các tu sĩ dòng Phanxicô muốn thử nghiệm Thánh tích thánh thiêng. Chúng ta hãy đặt mình vào vị trí của các tu sĩ: lần đầu tiên trong lịch sử Giáo hội, khoa học y tế hiện đại được phép phân tích một mẫu vật phi thường - được cho là chính Mình và Máu Chúa chúng ta - và các tu sĩ thậm chí còn chấp nhận sự phá hủy một phần của nó trong quá trình lấy mẫu. Họ hẳn phải có lòng dũng cảm rất lớn: nguy cơ các phân tích sẽ chứng minh nguồn gốc gian lận hoặc đơn giản hơn mang lại các kết quả không thể kết luận là rất cao (xét vì các mô tế bào rất cổ xưa và xuống cấp rất nhiều). Ít nhất, sự táo bạo của họ phải được cân bằng một cách dễ hiểu với niềm tin của họ vào một nhà khoa học không thù địch. Xét đến bối cảnh lịch sử của ông, bản thân tôi thấy thái độ thận trọng của họ khá dễ hiểu.

Báo cáo lảng tránh của Cơ quan Y Tế Liên Hiệp Quốc

Giữa năm 1973 và 1976, một Giáo sư Giuseppe Biondini nào đó đã tham gia vào một Ủy ban của Cơ quan Y tế Thế giới đang nghiên cứu sâu hơn để cố gắng giành được “sự hỗ trợ khoa học” lớn hơn cho công việc của Linoli. Phẩm chất của báo cáo nghiên cứu mới này - mà cá nhân tôi đã tham khảo tại Đền thờ Lanciano – hết sức thất vọng và không xứng đáng được công bố thêm.

Kết luận

Không thể phủ nhận rằng các nghiên cứu khoa học của Giáo sư Linoli đã khôi phục cả sự chú ý của công chúng đối với phép lạ cũng như khả năng hiển thị của nó. Tuy nhiên, ngay cả trước những nghiên cứu đó, nó chưa bao giờ thực sự bị lãng quên vào bất cứ thời điểm nào trong lịch sử và ngày nay sự quan tâm đến nó vẫn còn sống động hơn bao giờ hết: hàng năm, hàng chục nghìn người hành hương đến Lanciano từ khắp nơi trên thế giới để tôn kính thánh tích hoặc tôn thờ một Sự Hiện Diện (cả hai thái độ đều được Giáo Hội cho phép như nhau). Thật vậy, phép lạ Lanciano là một trong những thí dụ điển hình nhất về cuộc gặp gỡ hạnh phúc và sinh hoa trái giữa khoa học y tế và Đức tin Công Giáo.

Thư mục

Linoli, Odoardo. 1971. “Ricerche istologiche, immunologiche e biochimiche sulla carne e sul sangue del miracolo eucaristico di Lanciano (VIII secolo).” [Nghiên cứu mô học, miễn dịch và sinh hóa về thịt và máu của Phép lạ Thánh Thể Lanciano (thế kỷ thứ 8).” Quaderni Sclavo di Diagnostica 7 (3). Báo cáo gốc của Giáo sư Linoli không còn nữa. Bản sao PDF thuộc quyền sở hữu của tác giả và có thể được cung cấp theo yêu cầu.

Linoli, Odoardo. 1992. Ricerche istologiche immunologiche e biochimiche sulla carne e sul sangue del miracolo eucaristico di Lanciano (VIII secolo) [Nghiên cứu mô học, miễn dịch và sinh hóa về thịt và máu của Phép lạ Thánh Thể Lanciano (thế kỷ thứ 8)]. Ý: Edizioni S.M.E.L. Kết quả nghiên cứu từ năm 1971 được tích hợp với dữ kiện từ nghiên cứu năm 1981 và suy tư về cấu trúc vĩ mô của Thịt bởi Giáo sư Linoli. Có sẵn để bán tại Đền thờ Phép lạ Thánh Thể ở Lanciano.

Wikimedia. 2018. “Tập tin: Phép lạ Thánh Thể ở Lanciano – tài liệu công cộng – L’Osservatore Romano.JPG.” L'Osservatore Romano. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2021. Bài báo trong đó Giáo sư Linoli trình bày những phát hiện khoa học thu được từ vòng nghiên cứu thứ hai của ông.

Petrone, Nicola. 1990. Il miracolo eucaristi-co di Lanciano [Phép lạ Thánh Thể ở Lanciano]. tái bản lần thứ 2. Lanciano: Litografia Botolini presso Libreria S.M.E.L. Được hỗ trợ bởi impprimatur của Giáo Hội, được cập nhật với các nghiên cứu từ năm 1981.

Sammaciccia, Bruno. 1973. Il miracolo eu-caristico di Lanciano: La scienza ha fornito le prove [Phép lạ Thánh Thể Lanciano: Khoa học đã chứng minh]. Tái bản lần thứ 4. Lanciano: Litografia Botolini. Cuốn sách đầu tiên kể lại toàn bộ câu chuyện về phép lạ thánh thể Lanciano dưới ánh sáng những phát hiện của Giáo sư Linoli. Được hỗ trợ bởi imprimatur của Giáo hội.

La Lampada. 2010. “Bollettino: Santurario del miracolo eucaristico,” [Bản tin: Đền Thánh phép lạ Thánh Thể], La Lampada III (20).

Trong số báo định kỳ này được xuất bản bởi đền thánh Lanciano, Cha Petrone đưa ra giả thuyết cho rằng phép lạ được Guitmund xứ Aversa mô tả rất có thể là phép lạ của Lanciano. Không còn có sẵn trực tuyến. Bản sao PDF thuộc quyền sở hữu của tác giả và có thể được cung cấp theo yêu cầu.

Ghi chú

(2) Có thể do ô nhiễm môi trường.

(3) Phần mô học được chuẩn bị từ mô được lấy mẫu bằng các phương pháp khác nhau. Tuy nhiên, kết quả cuối cùng là một lát mô cực mỏng được cố định trên một phiến kính để kiểm tra dưới kính hiển vi.

(4) Myocardial có nghĩa là thuộc về cơ tim [myocardium: lớp giữa vách gồm cơ bắp của tim]: thuật ngữ y học chỉ tim.

(5) Mô mỡ [adispose tissue] là thuật ngữ y học chỉ chất béo.

(6) Dây thần kinh phế vị [vagus] cung cấp sự ức chế cho tim, làm chậm nhịp tim.

(7) Chết cứng đờ [rigor mortis] là một hiện tượng bình thường sau khi chết dẫn đến tình trạng cứng toàn thân tạm thời tất cả các cơ trong cơ thể.

(8) Trái tim con người được chia thành bốn buồng: hai tâm nhĩ và hai tâm thất. Tâm thất trái là buồng co bóp lớn nhất và mạnh nhất của tim người trưởng thành.

(9) Hình ảnh trái tim theo trục ngắn cạnh xương ức cho thấy hình ảnh cắt ngang của trái tim được cắt theo chiều ngang bởi một mặt phẳng tưởng tượng.

(10) Nói rộng ra, những xét nghiệm này sàng lọc sự hiện diện của phân tử sắc tố heme chứa sắt có trong hemoglobin, protein vận chuyển oxy có trong hồng cầu.