
Tờ Catholic Herald, ngày 3 tháng 2, 2025, cho hay: Khi Đức Giáo Hoàng Leo XIV tham dự Giờ Kinh Phụng vụ, sự hiện diện của ngài bên cạnh Đức Thượng phụ Đại kết Bartholomew đã tái khẳng định cam kết của Rome đối với sự hiệp nhất Kitô giáo vào thời điểm các chính phủ thế tục ở Đông và Tây đang tham gia vào cuộc xung đột chính trị kín đáo.
Trong bài giảng, Đức Thượng phụ Bartholomew đã nhấn mạnh đến sự hiệp nhất thiêng liêng của hai Giáo hội, đồng thời thừa nhận những rào cản thần học to lớn vẫn đang cản trở sự hiệp thông giữa các truyền thống Kitô giáo Đông phương và Tây phương.
“Là những người kế vị hai vị thánh Tông đồ, những người sáng lập các Giáo hội tương ứng của chúng ta,” ngài nói, ám chỉ đến Thánh Phêrô và Thánh Anrê, “chúng ta cảm thấy được gắn kết bởi mối dây huynh đệ thiêng liêng.”
Hai vị thánh tông đồ được Đức Thượng Phụ cầu khẩn là Phêrô, người sau này trở thành Giáo hoàng đầu tiên, đã rao giảng tại Rôma và chịu tử đạo tại đó, biến thành phố này thành trung tâm của Giáo hội Tây phương, và Anrê, người mà sau này Constantinople tuyên bố là người sáng lập nhờ việc thành lập Giáo phận Byzantium, nơi đã phát triển thành một trung tâm tâm linh chính của thế giới Kitô giáo Đông phương.
Đức Thượng Phụ cũng lưu ý rằng "chúng ta chỉ có thể cầu nguyện để những vấn đề như filioque và ơn bất khả ngộ sẽ được giải quyết để những khác biệt trong hiểu biết không còn là rào cản cho sự hiệp thông của các Giáo hội chúng ta nữa."
Phát biểu tại nhà thờ chính tòa chật kín người, Đức Giáo Hoàng Leo đã mô tả sáu thập niên đối thoại vừa qua là "một con đường hòa giải, hòa bình và hiệp thông ngày càng phát triển", đồng thời nói thêm rằng các mối quan hệ thân ái được duy trì thông qua "các cuộc tiếp xúc thường xuyên, các cuộc gặp gỡ huynh đệ và đối thoại thần học khích lệ." Ngài nhắc lại rằng việc theo đuổi sự hiệp thông trọn vẹn vẫn là "một trong những ưu tiên trong sứ vụ của tôi với tư cách là Giám mục Rôma."
Sau thánh lễ, Đức Giáo Hoàng và Đức Thượng Phụ bước ra ban công phía trên sân để ban phép lành cho các tín hữu đã tụ họp bất chấp mưa lớn. Trong số các giáo phẩm có mặt có Đức Thượng Phụ Theodore II của Alexandria.
Đức Thượng Phụ Bartholomew đã xuất hiện bên cạnh Đức Giáo Hoàng Leo trong hầu hết mọi khoảnh khắc quan trọng của chuyến thăm, từ cuộc gặp với Tổng thống Erdoğan tại Ankara đến các buổi lễ tưởng niệm tại Ni-xê-a và Thánh lễ được cử hành cho các cộng đồng Công Giáo Thổ Nhĩ Kỳ.
Việc bãi bỏ các vạ tuyệt thông vào năm 1965, từng được mô tả là một mùa xuân tâm linh, đã khởi động công việc thần học tiếp tục thông qua Ủy ban Quốc tế Chung. Mặc dù tiến độ đã chậm lại do những chia rẽ nội bộ trong Chính thống giáo, cả hai nhà lãnh đạo đều bày tỏ quyết tâm duy trì đối thoại.
Tuy nhiên, bài giảng của Đức Thượng Phụ không chỉ truyền tải lời kêu gọi đoàn kết. Nó gợi lên một kỳ vọng rằng Rome, chứ không phải Constantinople, phải đưa ra những nhượng bộ mang tính quyết định về giáo lý nếu muốn khôi phục sự hiệp thông. Bằng cách xác định “filioque”, niềm tin Công Giáo cho rằng Chúa Thánh Thần xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con, chứ không chỉ từ Chúa Cha, và “ơn bất khả ngộ”, niềm tin Công Giáo cho rằng Đức Giáo Hoàng không thể sai lầm khi tuyên bố tín điều, là những “chướng ngại vật” cho sự hiệp thông, lời lẽ của ngài ít mang tính ngoại giao huynh đệ mà giống một lời thách thức thận trọng đối với các chuẩn mực của chủ nghĩa đại kết Công Giáo. Ngài chỉ thẳng vào các giáo lý đã gây rạn nứt sự hiệp thông, cho thấy niềm tin rằng trách nhiệm về sự rạn nứt này chủ yếu thuộc về Rôma.
Rôma đã thể hiện sự linh hoạt chính đáng về phụng vụ liên quan đến filioque—bỏ qua nó tại Ni-xê-a, và cho phép người Công Giáo theo nghi lễ Đông phương tuyên xưng Kinh Tin Kính mà không cần filioque, phù hợp với truyền thống nghi lễ của họ—nhưng ơn bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng không thể bị gán cho sự thích nghi có thể thương lượng hoặc khác biệt văn hóa. Nếu đúng như vậy, thì đó sẽ là việc ngừng công bố một định nghĩa giáo điều được long trọng tuyên bố bởi Công đồng chung Vatican I.
Việc Đức Thượng Phụ nhấn mạnh rằng sự hiệp nhất không được trở thành “sự hấp tán (absorption) hay thống trị” làm rõ rằng mối quan tâm của Chính Thống giáo vẫn là nguy cơ chủ nghĩa phổ quát giáo lý lấn át bản sắc giáo hội địa phương.
Ranh giới trung tâm không phải là liệu sự nồng ấm đại kết có tồn tại hay không, mà sự hiện diện của Đức Leo chứng minh điều đó. Câu hỏi cốt lõi là liệu cuộc đối thoại Công Giáo-Chính thống giáo có thể tiến triển mà không đòi hỏi cả hai Giáo hội phải sửa đổi các giáo lý vốn tạo nên các yếu tố cấu thành nên bản sắc tông truyền và công đồng hay không.
Sự hiệp nhất không thể đòi hỏi việc giải thể, bãi bỏ hoặc từ bỏ các giáo lý mà mỗi Giáo hội tuyên xưng là một phần không thể thiếu trong tính toàn vẹn giáo lý của chính mình. Sự nồng ấm có thể mở ra một cánh cửa đã đóng, nhưng giáo lý vẫn nắm giữ chìa khóa. Không có con đường khả thi nào dẫn đến sự hiệp thông trọn vẹn đòi hỏi Công Giáo phải ngừng công bố các giáo lý mà dựa vào đó, nó xác định bản sắc công đồng và tông truyền của chính mình